(LSO) - Tại Chương II của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam quy định mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng là những quy định hết sức cốt lõi và thiết thực khi luật sư hoạt động hành nghề của mình trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
1. Tổng quan
Đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của nghề luật sư bên cạnh tính chuyên nghiệp. Xác định tầm quan trọng như vậy nên ngay sau khi được thành lập, Liên đoàn luật sư Việt Nam cùng với việc kiện toàn về tổ chức và mọi mặt đã sớm ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam vào ngày 20.7.2011 theo Quyết định số 68/QĐ- HĐLSTQ của Hội đồng luật sư toàn quốc.
Luật sư và nghề luật sư ngày càng đông về số lượng, mạnh về chất lượng và chiếm được uy tín, sự tôn trọng của toàn xã hội. Để hoàn thiện mình phù hợp với tình hình mới trong khu vực và trên thế giới, ngày 13.12.2019, Hội đồng luật sư toàn quốc với Quyết định số 201/QĐ- HĐLSTQ về việc ban hành Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thay thế cho Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2011.
Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam được Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành năm 2019 gồm Lời nói đầu, 6 chương và 32 Quy tắc, có hiệu lực từ ngày ký ban hành; quy định những chuẩn mực về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải lấy Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư làm khuôn mẫu cho sự ứng xử và tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội.
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư trong Quan hệ với khách hàng được quy định tại Chương II của Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, gồm 4 Mục, 12 Quy tắc, từ Quy tắc 05 đến 16 quy định những Quy tắc cơ bản; Nhận vụ việc; Thực hiện vụ việc và Kết thúc vụ việc, trong đó liên quan tới rất nhiều vấn đề quan trọng giữa luật sư với khách hàng- một trong những chủ thể không thể thiếu trong hoạt động luật sư và hành nghề luật sư.
2. Những điểm cần lưu ý khi thực hiện quy định tại Chương II- Quan hệ với khách hàng của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư và các quy định khác liên quan, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác.
Như vậy, có thể thấy phạm vi hoạt động của luật sư là rất rộng. Trong quá trình hoạt động hành nghề của mình, luật sư phải tiếp xúc hầu hết các chủ thể trong xã hội, một trong những chủ thể rất cơ bản và quan trọng, đó chính là khách hàng.Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Trong hoạt động hành nghề của mình, luật sư không thể thiếu khách hàng, chính khách hàng đã làm nên uy tín và thương hiệu của luật sư, do vậy rất cần có các quy tắc liên quan điều chỉnh, đảm bảo chuẩn mực đạo đức khi ứng xử cũng như trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Trong mối quan hệ, đặc biệt là hoạt động nghề nghiệp của luật sư trong công việc có lúc thăng, lúc trầm nhằm đảm bảo giữ vững đạo đức, chuẩn mực của luật sư khi hành nghề cũng rất cần có các quy tắc liên quan điều chỉnh để luật sư không vượt ngưỡng cho phép khi hành nghề, có những ứng xử phù hợp với khách hàng khi làm việc. Một mặt khác, chúng ta thấy hoạt động hành nghề của luật sư luôn luôn đứng về phía khách hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng nên luật sư luôn gắn bó mật thiết và chung lợi ích với khách hàng.
Luật sư là thành viên của Đoàn luật sư địa phương nơi luật sư gia nhập đồng thời là thành viên của Liên đoàn luật sư Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.Luật sư và hoạt động hành nghề luật sư tương đối độc lập nhưng bằng uy tín và sự tự chịu trách nhiệm của mình rất cao. Quản lý luật sư và hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội- nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Tổ chức xã hội- nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thực hiện quản lý luật sư và hành nghề luật sư của tổ chức mình theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam và Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Mỗi luật sư là thành viên trong tổ chức mình gia nhập đồng thời là thành viên của Liên đoàn luật sư Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của các quy định liên quan do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành. Khi có thành viên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng có thể bị xem xét kỷ luật. Điều này cho thấy khi Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, trong đó có quy định quan hệ của luật sư với khách hàng thì khi hoạt động hành nghề các luật sư phải tuân theo, nếu luật sư không tuân theo, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng sẽ phải chịu trách nhiệm tùy theo mức độ vi phạm. Các quy tắc liên quan trong mối quan hệ với khách hàng được quy định trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, buộc các thành viên trong tổ chức mình là các luật sư thành viên phải tuân theo và chấp hành. Luật sư hoạt động hành nghề tuân theo Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam cùng các quy định khác liên quan, trong trường hợp vi phạm thì tùy tính chất mức độ có thể bị xử lý kỷ luật theo quy định. Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam chính là khuôn mẫu, thước đo, màng lọc đối với mỗi luật sư khi hoạt động hành nghề trong đó có quan hệ rất cơ bản là với khách hàng.
Tại Chương II của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam quy định mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng là những quy định hết sức cốt lõi và thiết thực khi luật sư hoạt động hành nghề của mình trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Cụ thể nội dung trong Chương này quy định như sau:
Mục 1. Những quy tắc cơ bản
Quy tắc 5. Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng
Luật sư có nghĩa vụ tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
Như vậy trên cơ sở quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, luật sư phải tận tâm với công việc, sử dụng kiến thức, năng lực, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp khác để bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của mình một cách tốt nhất. Có thể nói, khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng thì luật sư phải dành mọi điều kiện tốt nhất có thể cho khách hàng của mình.
Quy tắc 6. Tôn trọng khách hàng
Luật sư thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý trên cơ sở yêu cầu hợp pháp của khách hàng; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và sự lựa chọn của khách hàng
Trên cở sở yêu cầu hợp pháp của khách hàng, luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý nhưng cũng tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và sự lựa chọn của khách hàng. Khách hàng có thể chọn luật sư này hoặc luật sư khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, khi được chọn cung cấp dịch vụ pháp lý, luật sư luôn tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng và sự lựa chọn của họ và cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất cho họ phù hợp quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Quy tắc 7. Giữ bí mật thông tin
7.1 Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật.
7.2 Luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và luật sư có trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bí mật thông tin của khách hàng là những vấn đề thuộc về đời tư của mỗi chủ thể được pháp luật bảo vệ. Khi cung cấp dịch vụ pháp lý cũng như khi đã kết thúc dịch vụ đó, luật sư không được tiết lộ thông tin của khách hàng hay nói cách khác là luật sư phải giữ bí mật thông tin của khách hàng, trừ trường hợp khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. Điều này cho thấy giữ bí mật thông tin của mỗi chủ thể nói riêng hay khách hàng nói chung là cực kỳ quan trọng, có thể ảnh hưởng khôn lường khi bị lộ do vậy luật sư phải hết sức thận trọng khi hành nghề. Chỉ trong trường hợp có căn cứ rõ ràng khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật như phục vụ công tác điều tra hay một lý do khẩn cấp nào đó mà pháp luật cho phép, luật sư mới được tiết lộ thông tin của khách hàng mà thôi, tuy nhiên luật sư cũng phải hết sức cân nhắc để tránh ảnh hưởng xấu tới khách hàng.
Bên cạnh nghĩa vụ của bản thân luật sư đối với khách hàng thì Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam còn có quy định trách nhiệm của luật sư phải yêu cầu các đồng nghiệp liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết không tiết lộ thông tin của khách hàng mà họ biết được đồng thời có trách nhiệm giải thích để các luật sư liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình hiểu được rằng nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Điều này càng cho thấy, cùng với việc cung cấp tốt nhất dịch vụ pháp lý cho khách hàng thì vấn đề bí mật thông tin của khách hàng cũng phải được luật sư hết sức coi trọng và lưu tâm, không chỉ khi cung cấp dịch vụ pháp lý mà ngay cả khi đã kết thúc dịch vụ; không chỉ bản thân luật sư có trách nhiệm mà cả các luật sư đồng nghiệp liên quan mà cả nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình.
Quy tắc 8. Thù lao
Luật sư phải giải thích cho khách hàng những quy định của pháp luật về căn cứ tính thù lao, phương thức thanh toán thù lao; thông báo rõ ràng mức thù lao, chi phí cho khách hàng và mức thù lao, chi phí này phải được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Trong mối quan hệ luật sư với khách hàng, cùng với việc luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất cho khách hàng của mình thì thù lao cũng là một vấn đề các bên rất quan tâm. Những vấn đề liên quan đến thù lao không được giải quyết hoặc quy định chặt chẽ sẽ dẫn đến dễ gây ra xung đột giữa luật sư với khách hàng, thậm chí là tranh chấp, khiếu kiện … Chính vì lẽ đó nên quy định về thù lao được quy định rất chặt chẽ trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, từ căn cứ của pháp luật để tính thù lao đến phương thức thanh toán; mức thù lao và chi phí thì luật sư phải giải thích rõ ràng cho khách hàng và tất cả các điều này hai bên phải thống nhất và ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý theo đúng quy định của pháp luật đặc biệt là quy định của Luật Luật sư liên quan và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Khi thực hiện dịch vụ pháp lý với khách hàng, luật sư phải lập Hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản và tuân theo quy định tại Điều 26 Luật Luật sư.
Quy tắc 9.Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng
9.1 Nhận, chiếm giữ, sử dụng tiền, tài sản của khách hàng trái với thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng.
9.2 Gợi ý, đặt điều kiện để khách hàng tặng cho tài sản hoặc lợi ích khác cho luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư.
9.3 Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện công việc gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
9.4 Tạo ra hoặc lợi dụng các tình huống xấu, những thông tin sai sự thật, không đầy đủ hoặc bất lợi cho khách hàng để gây áp lực nhằm tăng mức thù lao đã thỏa thuận hoặc có được lợi ích khác từ khách hàng.
9.5 Sử dụng thông tin biết được từ vụ việc mà luật sư đảm nhận để mưu cầu lợi ích không chính đáng.
9.6 Thông tin trực tiếp cho khách hàng hoặc dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân của luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc hoặc nhằm mục đích bất hợp pháp khác.
9.7 Cố ý đưa ra những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của mình để tạo niềm tin cho khách hàng ký kết hợp đồng.
9.8 Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư.
9.9 Lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ tình cảm nam nữ bất chính với khách hàng.
9.10 Lạm dụng các chức danh khác ngoài danh xưng luật sư trong hoạt động hành nghề để mưu cầu lợi ích trái pháp luật.
Giống quy định những việc luật sư không được làm với các chủ thể khác trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam nhưng trong quy định quan hệ giữa luật sư với khách hàng, Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam quy định một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn với độ dài của quy tắc cũng như nội hàm rõ ràng từng khía cạnh khi luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Với mười khía cạnh ở các góc độ khác nhau, quy tắc đã nêu ra cơ bản đầy đủ những việc mà luật sư và khách hàng khi làm việc với nhau dễ mắc phải, trong đó đề cập nhiều đến lợi ích vật chất cũng như quan hệ tình cảm nam nữ bất chính. Trên cơ sở quy định của pháp luật cũng như Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý bằng văn bản với khách hàng và tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Để ngăn chặn những việc vi phạm pháp luật cũng như Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, quy tắc này đã đưa ra những quy định nhằm phòng chống những điều đáng tiếc dễ xảy ra trong quan hệ giữa luật sư với khách hàng. Trong quy tắc này đã quy định chủ yếu hàm chứa những việc luật sư không được làm ngoài những thỏa thuận đã có giữa luật sư với khách hàng, không thông qua người thứ ba để làm những việc bất lợi cho khách hàng, không thu thêm bất cứ khoản tiền hoặc lợi ích vật chất nào ngoài quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý, luật sư phải tận tâm, trung thực không gian dối trong mọi trường hợp để mưu cầu lợi ích bất chính từ khách hàng; luật sư không cam kết, hứa hẹn những điều ngoài khả năng hoặc lợi dụng những điều mình biết hoặc khách hàng không nắm được để mưu lợi cá nhân ngoài những gì đã thỏa thuận. Một lưu ý khác mà luật sư đâu đó cũng có thể mắc phải đó là lợi dụng nghề nghiệp để quan hệ nam, nữ bất chính với khách hàng hoặc sử dụng các danh xưng khác luật sư nhằm mưu lợi cho mình từ khách hàng.
Có thể thấy, tại Mục 1 này quy định những quy tắc hết sức cơ bản liên quan giữa khách hàng và luật sư xuyên suốt trong quá trình luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc.
Mục 2. Nhận vụ việc
Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành dưới dạng văn bản và có tính bắt buộc áp dụng đối với những thành viên của tổ chức mình trong đó có luật sư. Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam là cơ sở để xây dựng các giá trị chuẩn mực của nghề luật sư, là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Chính vì vậy, cùng với chuyên môn nghiệp vụ sắc sảo của mình, việc rèn luyện về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp làm nên nền tảng nghề luật sư và mỗi luật sư phải lấy Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam làm khuôn mẫu cho sự ứng xử và tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội và đem lại lợi ích tốt nhất cho khách hàng.
Như vậy, việc mỗi luật sư thực hiện tốt Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam là một yêu cầu của thực tiễn hoạt động nghề nghiệp và tất nhiên khi luật sư là thành viên của một tổ chức là Liên đoàn luật sư Việt Nam khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không tốt sẽ bị xem xét và tùy theo tính chất, mức độ có thể bị xử lý kỷ luật theo quy định chung liên quan của Liên đoàn luật sư Việt Nam.
Trong hoạt động nghề nghiệp của mình, cùng với việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật liên quan thì luật sư phải có trách nhiệm thực hiện tốt và đầy đủ Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam do tổ chức mình quy định là Liên đoàn luật sư Việt Nam. Chúng ta đều biết và nghiên cứu, khi hoạt động hành nghề; luật sư tiếp xúc, làm việc với nhiều chủ thể khác nhau như quan hệ với khách hàng, đồng nghiệp, cơ quan tiến hành tố tụng … luật sư luôn phải thực hiện đúng quy định của pháp luật cũng như Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam với chủ thể liên quan.Liên đoàn luật sư Việt Nam rất coi trọng và yêu cầu mỗi luật sư phải thực hiện tốt và đầy đủ quy định của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.Quan hệ luật sư với khách hàng là một trong những quy định rất cơ bản trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; nhận vụ việc là yếu tố phát sinh quan trọng ban đầu cho mối quan hệ này.
Quy tắc 10. Tiếp nhận vụ việc của khách hàng
10.1 Khi được khách hàng yêu cầu tiếp nhận vụ việc, luật sư cần nhanh chóng trả lời cho khách hàng biết về việc có tiếp nhận vụ việc hay không.
10.2 Luật sư không phân biệt, đối xử về giới tính, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, tuổi tác, sức khỏe, khuyết tật, tình trạng tài sản của khách hàng khi tiếp nhận vụ việc. Trường hợp biết khách hàng thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí thì luật sư thông báo cho họ biết.
10.3 Luật sư chỉ nhận vụ việc theo điều kiện, khả năng chuyên môn của mình và thực hiện vụ việc trong phạm vi yêu cầu hợp pháp của khách hàng.
10.4 Luật sư có nghĩa vụ giải thích cho khách hàng biết về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong quan hệ với luật sư; về tính hợp pháp trong yêu cầu của khách hàng; những khó khăn, thuận lợi có thể lường trước được trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý; quyền khiếu nại và thủ tục giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với luật sư.
10.5 Khi nhận vụ việc của khách hàng, luật sư phải ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong hợp đồng dịch vụ pháp lý phải xác định rõ yêu cầu của khách hàng, mức thù lao và những nội dung chính khác mà hợp đồng dịch vụ pháp lý phải có theo quy định của pháp luật.
Như phân tích và lưu ý tại phần trên trong nhận vụ việc thì tiếp nhận vụ việc của khách hàng là cơ sở ban đầu để quan hệ giữa luật sư với khách hàng được tiếp nối. Trong quy tắc này, yêu cầu luật sư phải nhanh chóng trả lời cho khách hàng về việc tiếp nhận hay không.
Luật sư tiếp nhận vụ việc theo điều kiện khả năng chuyên môn của mình trên cơ sở yêu cầu hợp pháp và sự lựa chọn của khách hàng nhưng không được phân biệt đối xử với khách hàng. Lưu ý nếu thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí thì luật sư phải thông báo cho họ biết.
Khi nhận vụ việc thì luật sư với khách hàng phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý và giải thích rõ các quyền và nghĩa vụ của hai bên đồng thời ghi vào nội dung hợp đồng cũng như thực hiện theo quy định liên quan.
Quy tắc 11. Những trường hợp luật sư phải từ chối khi tiếp nhận vụ việc của khách hàng
11.1 Khách hàng thông qua người khác yêu cầu luật sư mà luật sư biết rõ người này có biểu hiện lợi dụng tư cách đại diện cho khách hàng để mưu cầu lợi ích không chính đáng làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng.
11.2 Khách hàng yêu cầu dịch vụ pháp lý của luật sư mà luật sư biết rõ khách hàng có ý định lợi dụng dịch vụ đó cho mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc khách hàng không tự nguyện mà bị phụ thuộc theo yêu cầu của người khác.
11.3 Có căn cứ rõ ràng xác định khách hàng đã cung cấp chứng cứ giả hoặc yêu cầu của khách hàng trái đạo đức, vi phạm điều cấm của pháp luật.
11.4 Vụ việc của khách hàng có xung đột về lợi ích theo quy định tại Quy tắc 15.
Cùng với quy tắc quy định về việc tiếp nhận vụ việc của khách hàng thì Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam đồng thời có quy tắc quy định về những trường hợp luật sư phải từ chối khi tiếp nhận vụ việc của khách hàng. Điều này là phù hợp với hoạt động của luật sư và hành nghề luật sư trong quan hệ của luật sư với khách hàng để loại trừ những trường hợp vi phạm làm ảnh hưởng không tốt tới quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Có thể thấy trong quy tắc này, luật sư phải lưu ý không tiếp nhận vụ việc của khách hàng khi khách hàng thông qua người thứ ba yêu cầu mà người này lợi dụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng.Khách hàng yêu cầu luật sư trái pháp luật hoặc lợi dụng dịch vụ của luật sư làm điều cấm hoặc khách hàng bị ép buộc yêu cầu luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý thì luật sư cũng phải từ chối. Khách hàng cung cấp chứng cứ giả hoặc yêu cầu trái đạo đức, vi phạm pháp luật thì luật sư phải từ chối tiếp nhận vụ việc. Một vấn đề khác là có sự xung đột lợi ích quy định tại Quy tắc 15 thì luật sư cũng phải từ chối tiếp nhận vụ việc.
Mục 3. Thực hiện vụ việc
Quy tắc 12. Thực hiện vụ việc của khách hàng
12.1 Luật sư chủ động, tích cực giải quyết vụ việc của khách hàng và thông báo tiến trình giải quyết vụ việc để khách hàng biết.
12.2 Luật sư nhận và có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn tài liệu, hồ sơ mà khách hàng giao cho mình theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận với khách hàng.
12.3 Khi thực hiện vụ việc, luật sư phải có thái độ ứng xử phù hợp, tránh làm phát sinh tranh chấp với khách hàng. Nếu có bất đồng giữa luật sư và khách hàng hoặc có khiếu nại của khách hàng, luật sư cần có thái độ đúng mực, tôn trọng khách hàng, chủ động thương lượng, hòa giải với khách hàng.
12.4 Trong trường hợp đang cùng thực hiện một vụ việc, nếu có sự không thống nhất ý kiến giữa các luật sư có thể gây bất lợi cho khách hàng thì luật sư phải thông báo để khách hàng thực hiện quyền lựa chọn.
Khi đã tiếp nhận và thực hiện vụ việc thì luật sư phải chủ động, tích cực và thông báo tiến trình giải quyết vụ việc để khách hàng biết, thể hiện sự chu đáo của luật sư với khách hàng. Hồ sơ, tài liệu của khách hàng giao cho, luật sư phải bảo quản tốt theo quy định và khi thực hiện vụ việc phải có thái độ phù hợp, tránh xung đột với khách hàng và chủ động giải quyết khi có bất đồng với khách hàng. Trong trường hợp cùng các luật sư khác thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng nhưng có quan điểm khác nhau thì phải bàn bạc thống nhất và không thống nhất được phải báo cho khách hàng lựa chọn, tránh làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Quy tắc 13. Từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc của khách hàng
13.1 Luật sư có thể từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:
13.1.1 Khách hàng đưa ra yêu cầu mới mà yêu cầu này không thuộc phạm vi hành nghề luật sư hoặc trái đạo đức, trái pháp luật;
13.1.2 Khách hàng không chấp nhận ý kiến tư vấn giải quyết vụ việc đúng pháp luật, phù hợp với đạo đức do luật sư đưa ra, mặc dù luật sư đã cố gắng phân tích, thuyết phục;
13.1.3 Khách hàng vi phạm cam kết theo hợp đồng dịch vụ pháp lý mà các bên không thể thỏa thuận được hoặc quan hệ giữa luật sư với khách hàng bị tổn hại không phải do lỗi của luật sư;
13.1.4 Có sự đe dọa hoặc áp lực về vật chất hoặc tinh thần từ khách hàng hoặc người khác buộc luật sư phải làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp;
13.1.5 Có căn cứ xác định khách hàng đã lừa dối luật sư.
13.2 Luật sư phải từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:
13.2.1 Có căn cứ xác định khách hàng sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư để thực hiện hành vi vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức;
13.2.2 Phát hiện vụ việc thuộc trường hợp quy định tại Quy tắc 11;
13.2.3 Các trường hợp phải từ chối do quy định của pháp luật hoặc trường hợp bất khả kháng.
Với quy tắc này đã quy định có hai loại lựa chọn của luật sư khi đang thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng đó là những trường hợp luật sư có thể từ chối khi phát hiện ra những trường hợp vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức nhưng không thể thương lượng, trao đổi thống nhất với khách hàng hoặc không thể khắc phục được. Loại thứ hai là khi gặp phải những trường hợp đó, luật sư phải từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc mà không có cách khắc phục nào khác; đây là những trường hợp rất nghiêm trong như là trường hợp vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc bất khả kháng …
Quy tắc 14. Giải quyết khi luật sư đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý
Khi đơn phương chấm dứt thực hiện dịch vụ pháp lý theo Quy tắc 13, luật sư cần có thái độ tôn trọng khách hàng, thông báo bằng văn bản cho khách hàng trong thời hạn hợp lý để khách hàng có điều kiện tìm luật sư khác, đồng thời giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký kết.
Như vậy, khi không thể tiếp tục cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng mà đơn phương chấm dứt thì luật sư phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn nhất định, hợp lý để khách hàng có điều kiện tìm hướng giải quyết hoặc sử dụng luật sư khác đồng thời phải nhanh chóng giải quyết những vấn đề liên quan trong hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký kết trên cơ sở tôn trọng khách hàng và vì quyền lợi hợp pháp của hai bên.
Quy tắc 15. Xung đột về lợi ích
15.1 Xung đột về lợi ích là trường hợp do ảnh hưởng từ quyền lợi của luật sư, nghĩa vụ của luật sư đối với khách hàng hiện tại, khách hàng cũ, bên thứ ba dẫn đến tình huống luật sư bị hạn chế hoặc có khả năng bị hạn chế trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng.
Luật sư không được nhận hoặc thực hiện vụ việc trong trường hợp có xung đột về lợi ích, trừ trường hợp được phép theo quy định của pháp luật hoặc theo Quy tắc này.
15.2 Trong quá trình thực hiện vụ việc, luật sư cần chủ động tránh để xảy ra xung đột về lợi ích. Nếu phát hiện có xung đột về lợi ích xảy ra ngoài ý muốn của luật sư thì luật sư cần chủ động thông báo ngay với khách hàng để giải quyết.
15.3 Luật sư phải từ chối tiếp nhận vụ việc hoặc từ chối tiếp tục thực hiện vụ việc trong các trường hợp sau đây:
15.3.1 Vụ việc trong đó các khách hàng có quyền lợi đối lập nhau;
15.3.2 Vụ việc trong đó khách hàng mới có quyền lợi đối lập với khách hàng hiện tại; vụ việc khác của khách hàng là người đang có quyền lợi đối lập với khách hàng hiện tại trong vụ việc luật sư đang thực hiện;
15.3.3 Vụ việc trong đó khách hàng mới có quyền lợi đối lập với khách hàng cũ trong cùng một vụ việc hoặc vụ việc khác có liên quan trực tiếp mà trước đó luật sư đã thực hiện cho khách hàng cũ;
15.3.4 Vụ việc của khách hàng có quyền lợi đối lập với quyền lợi của luật sư hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư;
15.3.5 Vụ việc mà luật sư đã tham gia giải quyết với tư cách người tiến hành tố tụng, cán bộ, công chức khác trong cơ quan Nhà nước, trọng tài viên, hòa giải viên;
15.3.6 Vụ việc của khách hàng do cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em của luật sư đang cung cấp dịch vụ pháp lý có quyền lợi đối lập với khách hàng của luật sư;
15.3.7 Trường hợp luật sư không được nhận hoặc thực hiện vụ việc cho khách hàng quy định tại Quy tắc 15.3 này, luật sư khác đang làm việc trong cùng tổ chức hành nghề luật sư cũng không được nhận hoặc thực hiện vụ việc trừ trường hợp Quy tắc 15.3.4 và 15.3.6.
15.4 Luật sư vẫn có thể nhận hoặc thực hiện vụ việc trong các trường hợp tại Quy tắc 15.3, nếu có sự đồng ý bằng văn bản của khách hàng, trừ các trường hợp sau đây:
15.4.1 Các trường hợp bị cấm theo quy định của pháp luật;
15.4.2 Các vụ án, vụ việc tố tụng, vụ việc khiếu nại hành chính, vụ việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài, hòa giải thương mại;
15.4.3 Trường hợp tại Quy tắc 15.3.5.
Đây là quy tắc quy định hết sức nghiêm ngặt đối với luật sư khi tiếp nhận và thực hiện vụ việc cho khách hàng.Luật sư phải chủ động tránh để xảy ra xung đột về lợi ích và khi không mong muốn để xảy ra thì phải thông báo kịp thời để khách hàng biết giải quyết. Trong một số trường hợp có xung đột lợi ích nhưng được sự đồng ý bằng văn bản thì luật sư được cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, tuy nhiên một số trường hợp cấm hoàn toàn đối với luật sư để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng phù hợp quy định của pháp luật như quy định tại Quy tắc 15.4.
Mục 4. Kết thúc vụ việc
Quy tắc 16. Thông báo kết quả thực hiện vụ việc
Khi kết thúc vụ việc, luật sư cần thông tin cho khách hàng biết về kết quả thực hiện vụ việc và thanh lý hợp đồng theo thỏa thuận.
Với một quy tắc quy định nhưng rất trọn vẹn trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng của luật sư đó là khi kết thúc vụ việc thì luật sư thông tin cho khách hàng biết về kết quả thực hiện và thanh lý theo thỏa thuận. Điều này thể hiện sự chu đáo, chuyên nghiệp và vì quyền lợi tốt nhất cho khách của luật sư trong thời kỳ mới của đất nước.
3. Kiến nghị, đề xuất
Bên cạnh việc đa số các luật sư luôn coi trọng và thực hiện tốt, đầy đủ quy định trong Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì cá biệt có những luật sư còn chưa biết và hiểu rõ, chưa thực sự gắn mình trong hoạt động chuyên môn với việc thực hiện tốt Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, đôi lúc còn vi phạm thậm chí là vi phạm các quy định của pháp luật và bị xử lý một cách rất nghiêm khắc.
Luật sư vi phạm quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam và quy định khác của tổ chức xã hội- nghề nghiệp luật sư thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong các hình thức kỷ luật là:
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ sáu tháng đến hai mươi bốn tháng;
- Xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư.
Như vậy hệ quả của việc luật sư không thực hiện hay thực hiện không đúng các quy định nói chung, trong đó có Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong các hình thức kỷ luật nêu trên. Hình thức kỷ luật nặng nhất là xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư.
Thực hiện Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam với những quy tắc liên quan luôn luôn đòi hỏi mỗi luật sư phải có sự nhận thức một cách thấu đáo và chấp hành đúng, đầy đủ. Đây không những là yêu cầu của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư với luật sư thành viên mà đòi hỏi thực tế, mỗi luật sư cần có kỹ năng, kiến thức chuyên môn để thực hiện thật tốt và nhất là tránh vi phạm dẫn đến những hệ quả không đo, đong, đếm đượcliên quan tới danh dự, uy tín của mỗi luật sư cũng như đội ngũ luật sư mà xã hội luôn đặt niềm tin và coi trọng là nghề cao quý trong xã hội. Chính từ niềm tin của xã hội mà đòi hỏi mỗi luật sư hãy chấp hành một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ.
Để thực hiện tốt Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam nói chung, các quy tắc trong Quan hệ luật sư với khách hàng tại Chương II, chúng ta cần lưu ý và làm tốt các việc sau:
Một là, Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư cùng các tổ chức, cá nhân liên quan phải tuyên truyền rộng rãi để các luật sư đều nắm rõ và thực hiện, nhận thức đầy đủ và đúng đắn để có hành động phù hợp đối với Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; coi đây là chuẩn mực, là thước đo trong hoạt động hành nghề của mình. Các luật sư luôn lấy Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam là màng lọc trong quá trình phấn đấu, hoàn thiện bản thân về đạo đức nghề nghiệp; cùng với việc không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để cống hiến nhiều hơn cho xã hội góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Mọi người trong đó có khách hàng của luật sư biết và hiểu được Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam nhằm giám sát hoạt động của luật sư và hành nghề luật sư;
Hai là, cùng với việc thường xuyên nâng cao trình độ về mọi mặt, các luật sư phải luôn coi trọng đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Trong chương trình bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho luật sư hàng năm; Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư cần dành chương trình, thời lượng hợp lý cho các luật sư nghiên cứu và thấu hiểu các quy định của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, đặc biệt là những quy tắc quy định liên quan giữa luật sư với khách hàng.
Ba là, hằng năm hoặc định kỳ có chương trình trao đổi, hội thảo, hội nghị giữa Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là điều tra, kiểm sát, tòa án và cơ quan Nhà nước khác hay tổ chức, cá nhân liên quan trong việc đánh giá, phối hợp về quá trình thực hiện Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam trong thực tiễn, từ đó rút ra kinh nghiệm, bài học nhằm hoàn thiện hơn khi sửa đổi, bổ sung. Tranh thủ ý kiến những chuyên gia, nhà khoa học trong việc hoàn thiện Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam góp phần xây dựng đội ngũ luật sư Việt Nam ngày càng đông về số lượng, mạnh về chất lượng góp phần bảo vệ công lý, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN .
Luật sư, Thạc sĩ LÊ ĐĂNG TÙNG Thành viên Hội đồng Khen thưởng – kỷ luật Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội |