Ảnh minh họa.
Những vướng mắc từ thực tiễn thực hiện thủ tục đăng ký và giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ
Tại khoản 1, khoản 2, Điều 6, Luật SHTT quy định:
“1. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
2. Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả”.
Theo quy định này, việc đăng ký là không bắt buộc, ngay sau khi hoàn thành tác phẩm và mặc dù chưa tiến hành thủ tục đăng ký bản quyền, quyền tác giả vẫn sẽ phát sinh từ thời điểm đó. Tuy nhiên, trong thực tế việc chứng minh quyền sở hữu tác phẩm khi chưa được đăng ký bảo hộ là rất khó khăn, vì vậy, thông qua việc đăng ký sở hữu trí tuệ và có được giấy chứng nhận, mỗi tác giả có thể tự mình bảo vệ quyền lợi chính đáng của bản thân đối với thành quả của mình. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan đến tác giả (quyền liên quan) vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Cụ thể:
Thứ nhất, về thời gian thực hiện thủ tục trên thực tế, theo Điều 52, Luật SHTT, trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn hợp lệ, cơ quan quản lý Nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan cho người nộp đơn. Tuy nhiên, thời gian thực hiện trên thực tế thường kéo dài đến hơn một tháng, thậm chí là hơn hai tháng tại một số thành phố lớn.
Thứ hai, về tên và nội dung của tác phẩm đăng ký bảo hộ, các tổ chức, cá nhân đăng ký quyền tác giả đối với các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng thường đưa một số “biểu ngữ” hay khẩu hiệu vào tên tác phẩm. Tuy nhiên, Cục Bản quyền hiện không chấp nhận vì việc bảo hộ quyền tác giả không bảo hộ “khẩu hiệu”.
Thứ ba, về hồ sơ chứng minh quyền sở hữu khi đăng ký các tác phẩm, quyền tác giả bảo hộ tính nguyên gốc, tức là do tác giả tự sáng tạo và định hình, không sao chép các tác phẩm đã tồn tại trước đó. Do đó, nếu trong quá trình thẩm định hồ sơ đăng ký, có phát hiện tác phẩm giống tác phẩm đang đăng ký đã được công bố, sử dụng tại bất cứ kênh nào, dưới tên bất kỳ người nào khác, và người nộp đơn không giải trình và cung cấp chứng cứ chứng minh hợp lý thì hồ sơ đăng ký sẽ bị từ chối.
Thứ tư, các loại hình tác phẩm được bảo hộ trong quy định hiện hành không theo kịp thực tiễn. Hiện tại các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được bảo hộ quyền tác giả được diễn giải theo quy định của Luật SHTT chỉ gồm 12 loại hình. Việc quy định liệt kê như vậy có thể làm rõ được các loại hình tác phẩm được bảo hộ, tuy nhiên, việc không bao hàm hết tất cả trường hợp là không thể tránh khỏi. Đặc biệt, hiện nay, công nghệ thông tin không ngừng phát triển. Theo đó, các “phương thức” của tác phẩm ngày càng trở nên đa dạng hơn. Quy định của pháp luật SHTT dần không theo kịp thực tế nữa.
Thứ năm, kênh tra cứu các hồ sơ đã đăng ký bản quyền chưa thể đáp ứng nhu cầu người dân.
Bên cạnh đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm, vấn đề đăng ký bảo hộ đối sở hữu công nghiệp (SHCN) cũng còn nhiều khó khăn. Theo quy định pháp luật hiện hành, khi doanh nghiệp có nhãn hiệu, sáng chế... áp dụng cho sản phẩm và được bảo hộ, thì các đối tượng SHTT này sẽ trở thành tài sản của doanh nghiệp và mang lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi thế. Quyền SHTT khi được bảo hộ sẽ trở thành tài sản nên cũng có thể chuyển giao, chuyển nhượng.
Theo đó, các doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến vấn đề này và ngày càng nhiều doanh nghiệp tiến hành thực hiện các thủ thụ đăng ký nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền SHCN vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Có thể kể đến một số vấn đề sau:
(1) Hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến vấn đề phát triển sản phẩm, gọi vốn đầu tư, lập kế hoạch marketing, bán hàng mà không nhận thức được tầm quan trọng cũng như các bước tiến hành thủ tục đăng ký đối với quyền sở hữu công nghiệp của mình. Thực tế cho thấy, có rất ít doanh nghiệp Việt Nam có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ, vì vậy doanh nghiệp thường thiếu thông tin về sở hữu trí tuệ nói chung và kiểu dáng công nghiệp nói riêng; việc đăng ký kiểu dáng công nghiệp cũng vì thế mà chưa thực sự được quan tâm sát sao. Ngoài ra, thiếu sự tư vấn từ các tổ chức dịch vụ sở hữu trí tuệ, e ngại tốn thời gian và kinh phí cũng là rào cản khiến các doanh nghiệp phân vân hoặc không thực hiện đăng ký kiểu dáng công nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chưa đánh giá đầy đủ, đúng mức giá trị, tiềm năng của quyền SHTT, chưa xem xét một cách có hệ thống các biện pháp cần thiết để bảo hộ, quản lý và thực thi quyền SHTT của mình nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất từ quyền này.
(2) Điều 96 và Điều 112, Luật SHTT quy định bất kỳ tổ chức, cá nhân nào cũng có quyền phản đối cấp văn bằng bảo hộ SHCN hoặc đề nghị hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ SHCN với lý do người nộp đơn/chủ sở hữu không có quyền đăng ký hoặc không được chuyển nhượng quyền đăng ký. Để thực hiện việc phản đối này, tổ chức, cá nhân có yêu cầu phản đối phải chứng minh người nộp đơn SHCN có động cơ không trung thực khi nộp đơn đăng ký quyền SHCN. Tuy nhiên, các văn bản hiện hành của Luật SHTT chưa quy định, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Kiến nghị được đưa ra là nên có các quy định chi tiết về “động cơ không trung thực” cũng như yêu cầu về tài liệu, bằng chứng chứng minh cho động cơ không trung thực để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể yêu cầu cũng như các đại diện SHCN trong hoạt động thu thập tài liệu, chứng minh.
(3) Về vấn đề nhãn hiệu, theo quy định tại điểm h khoản 2, Điều 74, Luật SHTT liên quan đến việc sử dụng đối chứng là nhãn hiệu đã hết hiệu lực chưa quá năm (05) năm để từ chối cấp văn bằng bảo hộ cho một nhãn hiệu nộp sau. Quy định về thời hạn 05 năm là khá dài nếu so sánh với các quốc gia khác khi các quốc gia này chỉ quy định thời hạn tương tự là một (01) hoặc hai (02 năm). Ngoài ra, quy định này sẽ gây ra lúng túng trong trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu hết hạn nộp đơn mới cho chính nhãn hiệu này trong thời hạn 05 năm đó, thì đơn mới này có được hưởng ưu tiên dựa trên nhãn hiệu hết hạn hay không, và nếu có một đơn tương tự của chủ đơn khác được nộp vào trước đơn của chủ sở hữu nhãn hiệu hết hạn thì đơn nào sẽ được ưu tiên.
(3) Về mặt áp dụng trên thực tiễn, những khó khăn trong quá trình đăng ký khi bị trùng với các kiểu dáng công nghiệp đã được đăng ký nhưng không được dùng trong thực tế. Theo đó, chỉ có khoảng 15-20% số lượng kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký là đang được sử dụng vì lý do trùng với một kiểu dáng đã được đăng ký nhưng không được dùng trong thực tế. Trên thực tế, thời hạn nộp bổ sung bản gốc giấy ủy quyền là 01 tháng đối với đơn nhãn hiệu nộp tại Việt Nam, 34 tháng đối với đơn sáng chế là không còn phù hợp vì hiện nay có nhiều chủ đơn là tập đoàn đa quốc gia với bộ máy tổ chức phức tạp, việc ký giấy ủy quyền cũng được thực hiện qua nhiều công đoạn với thời gian kéo dài.
Ngoài hai đối tượng về SHTT trên, các doanh nghiệp hiện nay còn gặp nhiều khó khăn khi đăng ký mã vạch, khi vấp phải các vấn đề cả từ phía doanh nghiệp lẫn các quy định pháp luật. Cụ thể, doanh nghiệp hạn chế trong việc tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành về mã vạch dẫn đến việc chuẩn bị hồ sơ không hợp lệ; doanh nghiệp thụ động không theo dõi quá trình thẩm định hồ sơ; doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm, không biết cách xử lý khi không được chấp nhận đăng ký mã vạch. Cơ quan chức năng chậm trễ giải quyết đăng ký mã vạch; mất thời gian, tốn chi phí với “giấy phép con” khi khoản 9, Điều 1, Nghị định số 74/2018/NĐ-CP yêu cầu doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền để được xác nhận việc sử dụng mã nước ngoài khi sử dụng mã số mã vạch nước ngoài trên bao bì hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, địa phương không được giao quyền cấp giấy chứng nhận này mà chỉ có Trung tâm Mã số mã vạch Quốc gia (GS1) thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng tại Hà Nội mới có thẩm quyền. Theo đó, doanh nghiệp phải chi trả rất nhiều chi phí như lãi suất vay, lưu kho, lưu bãi lô hàng. Trong khi đó, có rất nhiều đơn hàng gấp cần xuất đúng thời gian đối tác yêu cầu. Hơn nữa, việc mất nhiều thời gian cũng khiến doanh nghiệp mất đi nhiều cơ hội xuất khẩu cũng như tìm kiếm khách hàng mới, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Thực tế, một số doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam đã tiếp tục gửi công văn đến Bộ KH&CN nêu ra những bất cập liên quan đến quy định về mã số, mã vạch, ghi nhãn hàng hóa… Trước đó, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP) cũng có kiến nghị giải quyết vướng mắc quy định về mã số, mã vạch nước ngoài trên hàng xuất khẩu.
Không chỉ khó khăn về mặt thủ tục đăng ký, việc giải quyết, xử lý các tranh chấp liên quan đến SHTT, hàng gian, hàng giả, mã số mã vạch cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, trong giai đoạn phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ, hành vi xâm phạm quyền SHTT ngày một gia tăng về số lượng, tinh vi về tính chất, nghiêm trọng về hậu quả. Có thể nói, tranh chấp quyền SHTT có tính chất đặc thù, với đối tượng sở hữu là tài sản vô hình, các loại hình tranh chấp còn tương đối mới, trong khi đó, cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp này cũng chưa được hoàn thiện, nên việc giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT đang gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:
Thứ nhất, theo khoản 4, Điều 26; khoản 2, Điều 30; khoản 1, Điều 35; khoản 1, Điều 37, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự tranh chấp về quyền SHTT tại tòa án được xác định như sau: Nếu tranh chấp SHTT thuần túy là tranh chấp dân sự, thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện; nếu tranh chấp SHTT thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng SHTT ở nước ngoài, thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh; nếu tranh chấp SHTT giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh. Thực tế cho thấy, hầu hết các hành vi xâm phạm quyền SHTT đều vì mục đích lợi nhuận. Khi thụ lý các vụ án tranh chấp quyền SHTT, các cấp tòa án khó xác định rõ ràng được cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận. Vì vậy, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện đến tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền SHTT, có tòa án xác định vụ án kinh doanh, thương mại; có tòa xác định vụ án dân sự, nên giữa tòa án cấp huyện và tòa án cấp tỉnh nhiều trường hợp “đùn đẩy” thẩm quyền cho nhau; gây khó khăn cho người khởi kiện.
Thứ hai, xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp dân sự trên thực tế còn hạn chế. Về phía người khởi kiện, việc khởi kiện ra tòa có thể gây hoang mang cho người tiêu dùng, làm giảm uy tín, gây thêm thiệt hại không đáng khi chưa có kết quả giải quyết tranh chấp. Cụ thể, tại Điều 203, BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với vụ án dân sự là 4-6 tháng, đối với các vụ án kinh doanh thương mại là 2-3 tháng kể từ ngày tòa án thụ lý vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, thời gian giải quyết tranh chấp thường kéo dài quá thời hạn luật định bởi các đối tượng tranh chấp quyền SHTT đa dạng nên để đánh giá được hành vi xâm hại hay xác định được thiệt hại phải chờ có ý kiến kết luận của các cơ quan chuyên môn. Vì vậy, thay vì yêu cầu cơ quan tư pháp bảo vệ quyền và lợi ích bị xâm phạm, các tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền SHTT thường yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm để đạt hiệu quả nhanh chóng, kịp thời mặc dù các biện pháp dân sự có thể giúp họ đạt được những khoản bồi thường đúng với thiệt hại phải gánh chịu.
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền yêu cầu tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án theo quy định tại khoản 1, Điều 136, BLTTDS. Tuy nhiên, theo khoản 2, Điều 208, Luật SHTT, để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp khoản bảo đảm... Quy định như vậy gây khó khăn cho thẩm phán bởi việc xác định một khoản tiền hợp lý bảo đảm cho thiệt hại chưa xảy ra là khó xác định.
Thứ tư, đối với việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT, theo Điều 204, Điều 205, Luật SHTT, trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu nguyên đơn không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất dành cho tòa án ấn định với mức tố đa không quá 500 triệu đồng. Quy định này chưa thật sự thỏa đáng, hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của bên bị xâm phạm trong trường hợp thiệt hại thực tế lớn hơn 500 triệu đồng mà họ không thể đưa ra một con số tương đối chính xác. Ngoài ra, theo khoản 2, khoản 3, Điều 168, BLTTDS, chi phí cho Luật sư do người yêu cầu chịu trách nhiệm thanh toán, trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, theo Luật SHTT, chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê Luật sư (khoản 3, Điều 205, Luật SHTT). Việc quy định như vậy chưa tạo sự thống nhất, gây khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ của các bên. Ngoài ra, “chi phí hợp lý” vẫn chưa được quy định rõ ràng, cụ thể, khó áp dụng trên thực tế.
Thứ năm, đối với việc giám định SHTT, các tranh chấp về quyền SHTT là một trong các tranh chấp dân sự nói chung được giải quyết theo các trình tự, thủ tục được quy định trong BLTTDS. Theo đó, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng. Mặc dù các quy định của pháp luật hiện nay về hoạt động giám định SHTT tương đối đầy đủ, nhưng vẫn còn một số vấn đề tồn tại, vướng mắc từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan chức năng đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động tố tụng khi có yêu cầu trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ, do số lượng đội ngũ giám định viên còn hạn chế.
Thứ sáu, mức độ vi phạm ngày càng đa dạng, tinh vi, trong khi lực lượng xử lý tranh chấp về SHTT còn hạn chế. Trên thực tế, các vi phạm về SHTT ngày càng tinh vi về phương pháp và cách thức thực hiện, trong khi tiềm lực của các đơn vị quản lý được giao trực tiếp xử lý các tranh chấp về SHTT lại chưa đủ mạnh ngang tầm nhiệm vụ, dẫn tới chưa đáp ứng kịp yêu cầu đấu tranh bảo vệ quyền SHTT. Có thể thấy về phương thức vi phạm, các đối tượng có xu hướng chuyển dịch từ tiếp thị, phân phối theo phương thức truyền thống sang hình thức thương mại điện tử. Bên cạnh đó, vi phạm trên internet là “không có biên giới, không có rào cản địa lý”. Chính vì vậy, quy định pháp luật SHTT đang bộc lộ rõ sự “hụt hơi” so với sự phát triển của xã hội, tính thi hành và khả thi không được bảo đảm.
Thứ bảy, quá trình điều tra còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, các đối tượng sản xuất, người buôn bán hàng giả thường xuyên thay đổi phương thức sản xuất/buôn bán hàng giả, thực hiện hành vi có tổ chức, cấu kết chặt chẽ và phân công từ khâu sản xuất, phân phối, liên hệ với người mua, đóng gói và vận chuyển hàng. Trong từng giai đoạn, việc bán hàng giả hoàn toàn có khả năng thực hiện tại mỗi địa điểm khác nhau nên việc truy lùng ra mỗi địa điểm đều gặp nhiều khó khăn và mất thời gian để truy vết. Mặt khác, việc kiểm tra, xác minh khi truy vết các địa chỉ bán hàng giả trên các trang thương mại điện tử là rất thách thức bởi địa chỉ được thể hiện trên website bán hàng thường là địa chỉ giả, không có thật và khi đến nơi xác minh, mặc dù là địa chỉ đúng nhưng đó lại không phải là địa chỉ của người bán hàng giả.
Thứ tám, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập. Cơ chế phối hợp và chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm còn nhẹ. Hiện nay, có tới năm cơ quan hành chính có chức năng và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính về SHTT gồm cơ quan quản lý thị trường, thanh tra chuyên ngành KH&CN, VH-TT&DL, Công an kinh tế, UBND các cấp cùng cơ quan hải quan kiểm soát hàng nhập khẩu. Do hoạt động rời rạc, thiếu sự đồng bộ về chất lượng cũng như số lượng, chức năng nhiệm vụ giữa các cơ quan lại chồng chéo nên dù chịu sự kiểm tra của năm cơ quan nêu trên nhưng nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng vẫn tràn ngập trên thị trường.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, để xử lý được hàng giả thì bắt buộc phải có giám định kết luận hàng giả. Nhiều mặt hàng giả, hàng kém chất lượng, chi phí giám định rất đắt, khi đưa đi giám định buộc lực lượng thực thi phải tạm ứng kinh phí giám định, nếu đúng là hàng giả thì phải tiêu hủy. Theo quy định của pháp luật thì chính đương sự vi phạm phải nộp khoản tiền giám định đó nhưng hầu như không có đương sự nào tự nguyện chịu nộp và việc cưỡng chế thi hành cũng khó khăn.
Thứ chín, người tiêu dùng không có nhiều thông tin về mặt hàng mình đang mua mà chỉ dựa vào những gì được in trên bao bì hoặc nhận thông tin từ người bán hàng trực tiếp trong khi vẫn có câu “người mua thua người bán”. Bên cạnh một số người mua lầm phải hàng giả do khó phân biệt được đâu là hàng thật, đâu là hàng giả thì vẫn có không ít người tiêu dùng biết mình đang mua bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng nhưng vẫn không có động thái phù hợp để giúp cơ quan chức năng, doanh nghiệp kịp thời xử lý, đôi khi còn chấp nhận bởi loại hàng hóa này phù hợp với túi tiền của họ. Nhiều người đã gián tiếp tiếp tay cho hàng giả, hàng nhái trong việc phân phối và tiêu thụ để rồi ngày càng chiếm thị phần trên thị trường.
Những giải pháp
Đứng trước những rào cản và thách thức hiện nay liên quan đến thi hành quyền SHTT trong đăng ký, giải quyết các tranh chấp liên quan đến SHTT, hàng gian, hàng giả, mã số mã vạch, chất lượng hàng hóa, việc tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và các cơ chế thực thi là rất cần thiết. Để khắc phục tình trạng này, cần lưu ý, xem xét những vấn đề sau:
(1) Cần thường xuyên rà soát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của các biện pháp bảo vệ quyền SHTT theo hướng bảo đảm tính chất dân sự của quyền SHTT, dần tiến tới xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về SHTT. Điều đó sẽ giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước tin tưởng và yên tâm phát triển sản xuất, thu hút lực lượng lao động nội địa.
(2) Cần nghiên cứu thành lập tòa án chuyên trách về SHTT, có kế hoạch xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên xét xử các vụ việc về SHTT. Chỉ khi có tòa án chuyên trách và đội ngũ thẩm phán giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực này, chủ sở hữu quyền SHTT, trong đó có các doanh nghiệp mới tin tưởng để đưa các tranh chấp ra giải quyết tại tòa và hiệu quả xử lý được nâng cao.
(3) Khuyến khích giải quyết các tranh chấp SHTT bằng hình thức trọng tài; đẩy mạnh và tăng cường hoạt động hòa giải các tranh chấp về SHTT. Việc giải quyết tranh chấp SHTT bằng hình thức trọng tài có thể giúp cho các bên giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Đây là điều mà các doanh nghiệp mong muốn để có thể yên tâm mở rộng quy mô sản xuất.
(4) Trước mắt, khi các biện pháp xử lý bằng biện pháp dân sự chưa được ban hành, áp dụng thì nên xem xét tăng mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT nhằm răn đe và triệt tiêu khả năng thu lợi bất chính từ hoạt động kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng xâm phạm quyền SHTT của các đối tượng vi phạm.
(5) Mở rộng xã hội hóa đi đôi với nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp về SHTT: rà soát, bổ sung và củng cố đội ngũ giám định viên tư pháp về SHTT; khuyến khích việc tham gia cung ứng, đồng thời tăng cường kiểm soát chất lượng dịch vụ giám định chuyên môn theo yêu cầu cũng như dịch vụ tư vấn pháp luật phục vụ hoạt động bảo vệ quyền SHTT. Công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan và giữa trung ương với địa phương là một trong những chìa khóa quan trọng trong thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao năng lực thực thi quyền SHTT tại Việt Nam, giúp phát huy sức mạnh của toàn lực lượng. Để làm được điều này, các cơ quan chức năng tại địa phương cần phải quan tâm đúng mức tới việc bố trí nguồn lực (kinh phí, nhân lực) và thời gian cho nhiệm vụ thực thi quyền sở hữu công nghiệp, cử cán bộ tham gia các khóa/lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực. Các cơ quan chức năng ở trung ương có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp chịu trách nhiệm trong việc đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho các cơ quan chức năng địa phương, từ đó, đồng bộ hóa chuyên môn cũng như cơ chế xử lý tranh chấp SHTT cho tất cả các cơ quan từ trung ương tới địa phương.
(6) Bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp SHTT thông qua thương lượng, hòa giải. Giải quyết tranh chấp SHTT thông qua thương lượng, hòa giải là biện pháp giải quyết tranh chấp không chính thức thông qua vai trò trung gian hòa giải của những người có kiến thức trong lĩnh vực SHTT, đó là Luật sư và các chuyên gia SHTT. Việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần được khuyến khích. Bởi hiện nay, vẫn chưa có đội ngũ chuyên trách đối với các tranh chấp SHTT và việc xây dựng một đội ngũ như vậy, không thể tiến hành một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, để giảm chi phí và công sức của các bên, cần đưa ra các quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng hơn về việc cho phép các bên tiến hành hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng các thỏa thuận trọng tài. Bằng cách này, tranh chấp có thể được giải quyết nhanh chóng, chính xác bởi các chuyên gia, Luật sư uy tín, có nhiều kinh nghiệm đối với các đối tượng liên quan đến SHTT mà các bên tranh chấp, phù hợp với ý chí của các bên cũng như quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010.
(7) Cần nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của quyền SHTT, pháp luật SHTT. Khi người dân nhận thức đúng đắn về vai trò của SHTT và pháp luật SHTT, pháp luật SHTT sẽ được áp dụng tốt hơn vào thực tiễn.
(8) Đối với các doanh nghiệp sản xuất, phải xác định trách nhiệm của mình trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng thực thi pháp luật, tích cực liên kết với các nhà sản xuất; thông tin đầy đủ, trung thực về hàng hóa và dịch vụ mà mình cung ứng bảo đảm tính hợp pháp của hàng hóa bán ra, tránh gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Bằng những chính sách, quy định pháp luật tiến bộ, cùng với sự phối hợp giữa cơ quan chức năng và người dân, những khó khăn, hạn chế trên có thể dần được khắc phục, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng và nhà sản xuất kinh doanh chân chính; từng bước tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng.
(1) Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19/6/2009 và Luật số 42/2019/QH14 ngày 14/6/2019. |
Luật sư NGUYỄN VĂN HẬU
Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh
Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về tội 'Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ'