Với Luật Dẫn độ, kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 426/430 Đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán thành.
Luật Dẫn độ là một trong 04 Luật về tương trợ tư pháp trình Quốc hội biểu quyết thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (gồm: Luật Dẫn độ; Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Tương trợ tư pháp về dân sự; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự). Luật Dẫn độ đã bổ sung nhiều quy định mới, mang tính phòng ngừa và tăng cường hiệu quả thực thi.
Bốn dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện đã bám sát mục tiêu, quan điểm đề ra khi xây dựng các dự án luật, kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật và hội nhập quốc tế trong tình hình mới, hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp nói chung và pháp luật trong từng lĩnh vực dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, tương trợ tư pháp về hình sự và tương trợ tư pháp về dân sự nói riêng; khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý, bảo đảm sự đồng bộ.

Toàn cảnh hội trường. Nguồn: Quochoi.vn.
Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe đã Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Dẫn độ.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật Dẫn độ gồm 04 Chương, 45 Điều.
Về các trường hợp có thể bị dẫn độ (Điều 7), có ý kiến đề nghị nâng ngưỡng hình phạt tối thiểu từ 02 năm tù trở lên tại khoản 1 Điều 7 để bảo đảm hiệu quả hợp tác tư pháp quốc tế, tránh lãng phí nguồn lực hành chính cho vụ việc nhỏ, đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo, chỉ dẫn độ đối với những hành vi thật sự nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội.
Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Ủy ban Thường vụ Quốc hội), Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, quy định “người có thể bị dẫn độ là người có hành vi phạm tội mà pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài quy định hình phạt tù có thời hạn từ 01 năm trở lên...” tại khoản 1 Điều 7 của dự thảo Luật là nội dung được kế thừa từ Luật Tương trợ tư pháp hiện hành (Điều 33), phù hợp với tập quán quốc tế và cam kết trong các hiệp định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết, nhằm bảo đảm khả năng hợp tác linh hoạt, kịp thời trong nhiều vụ việc và không giới hạn ở các hành vi phạm tội nghiêm trọng.
Trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét khả năng dẫn độ đối với người có hành vi phạm tội mà pháp luật quy định hình phạt tù là 01 năm nhưng người đó có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, chính sách nhân đạo của Nhà nước ta được bảo đảm qua cơ chế xem xét trong từng vụ việc cụ thể chứ không bằng việc đặt thêm tiêu chí về mức hình phạt. Nếu nâng ngưỡng hình phạt tù cao hơn sẽ dẫn tới trường hợp không thể dẫn độ đối với các vụ việc có mức hình phạt thấp mặc dù vẫn có ảnh hưởng quốc tế rõ ràng, làm giảm hiệu quả hợp tác tư pháp quốc tế và không khắc phục được nguy cơ vi phạm quyền con người trong từng trường hợp cụ thể.
Do đó, để bảo đảm tính tương thích quốc tế, duy trì hiệu quả hợp tác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đề nghị Quốc hội cho giữ ngưỡng hình phạt tối thiểu là 01 năm tù như quy định của dự thảo Luật.
Về dẫn độ có điều kiện (Điều 13), có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 13 nội dung theo dõi việc thực hiện cam kết của nước ngoài sau dẫn độ; trường hợp vi phạm, Việt Nam có quyền yêu cầu bồi thường hoặc áp dụng các biện pháp ngoại giao tương ứng.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, việc xem xét, chấp thuận và thực hiện điều kiện dẫn độ nhất định thuộc thẩm quyền nội bộ của từng quốc gia. Sau khi việc dẫn độ được thực hiện, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, Việt Nam chỉ có thể theo dõi, đôn đốc thông qua kênh ngoại giao khi cần thiết chứ không có thẩm quyền áp dụng chế tài đối với quốc gia khác. Hoạt động dẫn độ dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và thiện chí giữa các quốc gia, nên việc đặt ra cơ chế kiểm soát hoặc chế tài đối với nước ngoài có thể bị coi là can thiệp vào công việc nội bộ, ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại, đồng thời làm phát sinh xung đột pháp lý, không phù hợp với tập quán quốc tế. Do đó, đề nghị Quốc hội cho phép không bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật.
Về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ (Điều 33), có ý kiến cho rằng, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến quyền con người và thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong hợp tác quốc tế nên cần quy định cụ thể hơn về các cơ quan có thẩm quyền, cơ chế giao quyền và quy định về nơi giữ người trong trường hợp khẩn cấp để bảo đảm tính khả thi, đồng thời giao Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn về nội dung của quyết định giữ người, chế độ và công tác quản lý đối với người bị giữ trong thời gian giữ tại các cơ sở lưu trú.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cũng nêu rõ, tiếp thu ý kiến Đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung các nội dung nêu trên tại các khoản 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 33 của dự thảo Luật.
Cũng trong sáng ngày 26/11, Quốc hội tiếp tục tiến hành biểu quyết thông qua Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Kết quả biểu quyết cho thấy có 429/430 Đại biểu Quốc hội có mặt tán thành.
Trình bày báo cáo tóm tắt Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù trước đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù gồm 04 Chương, 48 Điều. Trong đó, đối với 02 vấn đề lớn của dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho hay:
Về phiên họp phúc thẩm xem xét quyết định tiếp nhận hoặc quyết định từ chối tiếp nhận bị kháng cáo, kháng nghị; phiên họp phúc thẩm xem xét quyết định chuyền giao hoặc quyết định từ chối chuyển giao bị kháng cáo, kháng nghị (Điều 24, Điều 41)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc thông báo kháng cáo, kháng nghị để bảo đảm quyền được biết và quyền giám sát của các bên có liên quan. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu, quy định trình tự tại phiên họp phúc thẩm cụ thể hơn.
Tiếp thu ý kiến Đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung quy định về trách nhiệm, thời hạn mà Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân phải gửi thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị như thể hiện tại khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 41 của dự thảo Luật. Đồng thời, xin chỉnh lý quy định về trình tự phiên họp phúc thẩm xem xét quyết định tiếp nhận hoặc quyết định từ chối tiếp nhận bị kháng cáo, kháng 4 nghị, trình tự phiên họp phúc thẩm xem xét quyết định chuyển giao hoặc quyết định từ chối chuyển giao bị kháng cáo, kháng nghị cụ thể hơn như thể hiện tại điểm b, điểm c khoản 3 Điều 24, điểm b, điểm c khoản 3 Điều 41, bảo đảm thống nhất với trình tự quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và dự thảo Luật Dẫn độ.
Về chuyển đổi hình phạt tù (Điều 25)
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại khoản 5 Điều 25 của dự thảo Luật vì việc giao quy định chi tiết Điều này chưa phù hợp và không cần thiết.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo như sau: chuyển đổi hình phạt tù là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của người đang chấp hành án phạt tù, trong khi chính sách hình sự của Việt Nam với các nước có nhiều điểm khác biệt. Do đó, để bảo đảm quy định của dự thảo Luật khả thi, ổn định, thuận lợi khỉ áp dụng, phù hợp với yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, khoản 5 Điều 25 giaо “Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này” để quy định cụ thể về các nội dung có liên quan như: việc chuyển đổi hình phạt tù trong trường hợp hình phạt tù mà nước chuyển giao đã áp dụng với người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn trên 30 năm đối với nhiều tội, trên 20 năm đối với một tội; việc chuyển đổi hình phạt tù trong thời gian đã chấp hành được một phần bản án, quyết định của tòa án nước chuyển giao... Trong quá trình triển khai thi hành Luật, nếu phát sinh vướng mắc, bất cập thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân để ban hành nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2026.
Về Điều khoản chuyển tiếp: Các yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù mà Bộ Công an tiếp nhận trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được xem xét, giải quyết theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp số 08/2007/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 81/2025/QH15 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật.

