/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Quy định pháp luật về trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự

Quy định pháp luật về trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự

20/09/2022 17:54 |

(LSVN) - Trưng cầu giám định được thực hiện trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án hình sự, kết quả trưng cầu giám định có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh tội phạm. Vì vậy, đây là hoạt động được cơ quan tố tụng thực hiện rất chặt chẽ.

Ảnh minh họa.

Trường hợp bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đề nghị giám định, thì phạm vi đề nghị: Đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội quy định tại Điều 207, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Bị can, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác (trừ đương sự) có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định; đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại theo quy định tại khoản 3, Điều 214, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Đương sự hoặc người đại diện của họ là người có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Cụ thể, khoản 1, Điều 207, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, quy định về việc yêu cầu giám định:Đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.

Bắt buộc phải tiến hành trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 206, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định cụ thể bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định những vấn đề sau: Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Nguyên nhân chết người; Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; Mức độ ô nhiễm môi trường. Đối với việc giám định độ tuổi nhằm xác định tuổi của các đương sự trong vụ án hình sự là căn cứ quan trong để giải quyết vụ án hình sự.

Trưng cầu giám định được tiến hành theo khoản 1, Điều 205, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.

Ngay sau khi ra quyết định trưng cầu giám định, điều tra viên cần khẩn trương tiếp xúc với người, tổ chức giám định, trình bày nội dung yêu cầu giám định thật chính xác với những tài liệu, vật chứng, dấu vết, mẫu vật đưa giám định. Trong trường hợp việc trưng cầu giám định có kèm theo đối tượng giám định thì việc giao, nhận đối tượng giám định phải được lập thành biên bản. Biên bản giao nhận đối tượng giám định có nội dung chính như: Thời gian, địa điểm giao, nhận đối tượng giám định; Họ, tên người đại diện của bên giao và bên nhận đối tượng giám định; Tên đối tượng giám định; Cách thức bảo quản đối tượng giám định khi giao, nhận; Tình trạng đối tượng giám định khi giao, nhận; Tài liệu hoặc đồ vật liên quan; Chữ ký của bên giao và bên nhận đối tượng giám định.

Thời hạn giám định thực hiện theo khoản 1 và khoản 2, Điều 208, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định: Không quá 03 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 206 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6, Điều 206 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, khoản 4 và khoản 5, Điều 206 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Tiến hành giám định bổ sung, giám định lại khi có một trong các căn cứ: Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ; khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó được thực hiện theo khoản 1, Điều 210, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Còn giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 211, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật Giám định tư pháp.

Kết luận giám định được quy định tại Điều 213, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 nêu rõ kết luận giám định phải ghi rõ kết quả giám định đối với những nội dung đã được trưng cầu, yêu cầu và những nội dung khác theo quy định của Luật Giám định tư pháp: Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định; Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận Giám định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định phải gửi kết luận giám định cho VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Để làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định, cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định giải thích kết luận giám định; hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết.

Việc trưng cầu giám định có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự, nhiều vụ án hình sự việc trưng cầu giám định giúp gỡ nút thắt trong việc đánh giá hành vi phạm tội, tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội; xác định sự thật khách quan của vụ án, nên hoạt động trưng cầu giám định phải tuân thủ một quy trình khá chặt chẽ, trong một số trường hợp cần thiết việc trưng cầu giám định còn được thực hiện bổ sung, thực hiện lại, tại phiên tòa Giám định viên còn được triệu tập để làm rõ kết quả trưng cầu giám định.

Luật sư HÀ THỊ KHUYÊN

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Phân biệt tội ‘Chống người thi hành công vụ’ với một số tội khác

Lê Minh Hoàng