Đặt vấn đề
Việc đánh giá đúng, đầy đủ, chính xác, khoa học quá trình cải cách tư pháp ở nước ta sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, đặc biệt sau 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020 có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn để khẳng định những kết quả đạt được và rút ra những bài học kinh nghiệm để phát huy, đồng thời chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân để khắc phục.
Tổng kết thực trạng cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua phải xuất phát từ thực tiễn đổi mới đất nước ta, thực tiễn cải cách tư pháp ở nước ta, thực tiễn đổi mới tư pháp trên thế giới; dựa vào các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp; dựa vào các thành tựu nghiên cứu của khoa học pháp lý về tư pháp; các kết quả cải cách tư pháp ở nước ta. Việc tổng kết cần hướng đến tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát hiện những “điểm nghẽn” của cải cách, đề xuất những vấn đề, những luận điểm mới có căn cứ lý luận và thực tiễn, những giải pháp, kiến nghị mới đúng đắn, thiết thực, cụ thể để tiếp tục cải cách tư pháp có hiệu quả và nâng cao chất lượng.
Về nội dung đánh giá, chúng tôi tập trung vào những vấn đề sau đây: đổi mới tư duy lý luận về tư pháp, về cải cách tư pháp và sự đóng góp của đổi mới tư duy lý luận về tư pháp và cải cách tư pháp vào kết quả cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua; đổi mới chính sách pháp luật, pháp luật về tư pháp; đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, đổi mới các cơ quan bổ trợ tư pháp; việc xây dựng và phát triển nhân lực tư pháp; hợp tác quốc tế về tư pháp; việc bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
1. Về những kết quả của cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua
1.1. Kết quả đổi mới tư duy lý luận về tư pháp, về cải cách tư pháp và sự đóng góp của đổi mới tư duy lý luận về tư pháp và cải cách tư pháp vào kết quả cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua
Từ khi đổi mới đến nay, đặc biệt sau khi Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020 được ban hành, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học thuộc các cấp khác nhau về tư pháp, cải cách tư pháp được tổ chức thực hiện. Các công trình nghiên cứu khoa học đó đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, cấp bách về tư pháp, cải cách tư pháp, làm nền tảng cho đổi mới nhận thức về tư pháp, cải cách tư pháp. Từng bước hình thành nên một hệ thống kiến thức lịch sử, lý luận về quyền tư pháp như: Lịch sử phát triển quyền tư pháp, khái niệm, bản chất, đặc điểm, nội dung, phương thức, các loại tư pháp, hệ thống tư pháp và một số vấn đề khác.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu đã luận giải quyền tư pháp cần phải được tách ra với tư cách là một bộ phận, nhánh, lĩnh vực quyền lực độc lập trong cơ chế quyền lực nhà nước, lập luận vị trí trung tâm của tòa án và xét xử là hoạt động trọng tâm trong thực hiện quyền tư pháp, xác định nhiệm vụ của tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quan điểm chuyển viện kiểm sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, giao Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý thi hành án. Những luận điểm đó làm nền tảng lý luận cho việc xây dựng các chủ trương về cải cách tư pháp, cho việc xây dựng Hiến pháp và các đạo luật quan trọng khác và được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, được hiến định và thể chế hóa trong các đạo luật của Nhà nước. Đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (1), Hiến pháp Việt Nam (Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013) (2), Luật Tổ chức TAND, Luật Tổ chức VKSND và các chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (3). Có thể nói, nghiên cứu lý luận về tư pháp, về cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua đã cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp, cho việc hiến định và thể chế hoá bằng pháp luật các chủ trương của Đảng về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, về bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.2. Kết quả đổi mới chính sách pháp luật, pháp luật về tư pháp
Dựa trên các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 2013, chính sách pháp luật về tư pháp từng bước được xây dựng, làm nền tảng, cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về tư pháp ở nước ta. Chính sách pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự và các chính sách pháp luật liên quan đến tư pháp khác đã được xác lập ngày càng rõ hơn, định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật liên quan đến tư pháp, thúc đẩy cải cách tư pháp.
Những quan điểm mang tính chính sách pháp luật hình sự theo hướng: Đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, giảm hình phạt tù, hạn chế hình phạt tử hình, giảm khung hình phạt tối đa quá cao, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ, khắc phục tình trạng tội phạm hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự, tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển xã hội, phân hóa hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự, quốc tế hóa đã được thể chế hóa trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Những quan điểm mang tính chính sách pháp luật dân sự theo hướng: tôn trọng quyền tự do kinh doanh, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch; xác lập và thúc đẩy các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, thương mại phát triển lành mạnh; hạn chế sự can thiệp quá mức của các cơ quan công quyền vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại; hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn đã được thể chế hóa trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại.
Những quan điểm mang tính chính sách pháp luật tố tụng tư pháp theo hướng: Phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp; tăng thẩm quyền cho thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, nâng cao tính độc lập của họ; xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn; hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự; hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự; mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các vụ án hành chính; từng bước thực hiện việc công khai hóa các bản án đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nói trên đã được tổ chức thực hiện trên thực tiễn và phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp phần thúc đẩy cải cách tư pháp ở nước ta.
1.3. Kết quả đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, đổi mới các cơ quan bổ trợ tư pháp
Tổ chức và hoạt động của TAND được xác định là trọng tâm, được đổi mới theo hướng: phân định lại và xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tòa án; bảo đảm thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho TAND cấp huyện; mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính; tổ chức tòa chuyên trách tại TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện; giảm bớt số lượng các tòa án quân sự khu vực và quân, binh chủng; thành lập các TAND cấp cao; hoàn thiện tổ chức, bộ máy của Tòa án nhân dân tối cao; đổi mới tổ chức phiên tòa, đặc biệt là phiên tòa hình sự; hệ thống TAND chuyển từ mô hình 03 cấp sang mô hình TAND 04 cấp. Điều đó được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013, trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tổ chức TAND và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND và trong tổ chức và hoạt động trên thực tiễn của hệ thống TAND ở nước ta.
Tổ chức và hoạt động của VKSND được đổi mới theo hướng: tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra; hệ thống VKSND chuyển từ mô hình 03 cấp sang mô hình VKSND 04 cấp; cơ cấu, tổ chức bộ máy của VKSND mỗi cấp được kiện toàn phù hợp với tính chất và khối lượng công việc của từng cấp; hệ thống VKS Quân sự được tinh giản; Cơ quan điều tra của VKSND tối cao được tăng cường bộ máy. Điều đó được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013, trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tổ chức VKSND và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND, trong tổ chức và hoạt động trên thực tiễn của hệ thống VKSND ở nước ta.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra được đổi mới theo hướng: tăng thẩm quyền điều tra cho cơ quan điều tra cấp huyện; bổ sung thẩm quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra do Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hủy để điều tra lại; bổ sung thẩm quyền cho cơ quan an ninh điều tra cấp tỉnh; bổ sung thẩm quyền điều tra các tội khủng bố, tài trợ khủng bố cho Cơ quan An ninh điều tra trong quân đội; bổ sung thẩm quyền cho Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng được điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án Quân sự hủy để điều tra lại; mở rộng thẩm quyền điều tra cho Cơ quan điều tra của VKSND tối cao và Cơ quan điều tra VKS Quân sự trung ương; quy định thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng thường trực, Phó thủ trưởng của Cơ quan an ninh điều tra, Cơ quan CSĐT Bộ Công an trên cơ sở đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án được đổi mới theo hướng: xác định rõ hơn nội dung quản lý nhà nước, mô hình tổ chức bộ máy, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan trong lĩnh vực thi hành án; thi hành án dân sự được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương với 03 cấp gồm tổng cục, cục và chi cục; hoàn thiện cơ chế quản lý thi hành án dân sự, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Tư pháp, chính quyền địa phương và các cơ quan khác liên quan đến công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; thành lập lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp; thay thế hình thức thi hành án tử hình; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án treo, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; đề cao trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp xã trong việc theo dõi, giám sát việc thi hành các loại hình phạt nói trên.
Tổ chức và hoạt động của Luật sư từng bước được hoàn thiện theo hướng: hoàn thiện cơ sở pháp luật về tổ chức và hoạt động của Luật sư; phát triển nghề Luật sư và đội ngũ Luật sư cả về số lượng và chất lượng; đẩy mạnh hoạt động tư vấn pháp luật của Luật sư; tăng cường hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư; chất lượng hoạt động của Luật sư được nâng lên một bước, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; phát huy chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đối với các thành viên của mình; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Luật sư.
Tổ chức và hoạt động của công chứng từng bước được hoàn thiện theo hướng: hoàn thiện cơ sở pháp luật về tổ chức và hoạt động của công chứng; xác định rõ phạm vi của công chứng; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng; phát triển nghề công chứng, tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên; tham gia hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công chứng.
Tổ chức và hoạt động của giám định tư pháp từng bước được hoàn thiện theo hướng: hoàn thiện cơ sở pháp luật về tổ chức và hoạt động của giám định tư pháp; xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp trong một số lĩnh vực; đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp; củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức giám định công lập, hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự; xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc.
1.4. Kết quả xây dựng và phát triển nhân lực tư pháp
Những quan điểm mang tính nền tảng tư tưởng chính trị cho việc xây dựng và phát triển nhân lực tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020, được triển khai thực hiện và đã thu được những kết quả nhất định. Dựa vào đó, các đề án phát triển nguồn nhân lực tư pháp, phát triển nhân lực tư pháp được xây dựng và tổ chức thực hiện.
Trước hết, đó là Đề án “Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”, Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”.
Đảng đoàn Quốc hội đã lãnh đạo, chỉ đạo sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thời hạn bổ nhiệm các chức danh tư pháp.
Ban cán sự đảng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan phối hợp với các cơ quan, tổ chức được giao thực hiện các nhiệm vụ tư pháp, bổ trợ tư pháp nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện cơ chế thi tuyển, bổ nhiệm và thực hiện các chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp.
Ban cán sự Đảng TAND tối cao đã chỉ đạo việc nghiên cứu thể chế hóa các nội dung về xây dựng đội ngũ cán bộ tòa án trong sạch, vững mạnh, xây dựng và thực hiện các đề án, kế hoạch phát triển nhân lực tòa án nhằm bổ sung, tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng đối với đội ngũ cán bộ, công chức của ngành TAND.
Ban cán sự Đảng VKSND tối cao đã chỉ đạo và cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết về phát triển đội ngũ cán bộ kiểm sát trong các cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ kiểm sát nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ công chức, viên chức ngành kiểm sát.
Đảng ủy Công an Nhân dân tích cực quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, có chính sách tuyển chọn thêm cán bộ chiến sĩ tốt nghiệp các trường đại học ngành ngoài để làm công tác đặc thù. Đội ngũ điều tra viên trong Công an Nhân dân được thi tuyển đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác điều tra hình sự trong tình hình mới.
Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch tạo cơ sở chính trị, pháp lý cần thiết cho việc triển khai thực hiện công tác cán bộ, góp phần củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Tư pháp, bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
Từ việc phân tích trên cho thấy, Đảng ta đã đưa ra chủ trương phát triển nhân lược tư pháp với những nội dung cụ thể nhất định, các tổ chức đảng đã lãnh đạo và chỉ đạo cụ thể hóa các nội dung đó và các cơ quan nhà nước tương ứng với tư cách là các chủ thể của chính sách đã xây dựng và thực hiện các nội dung cụ thể để phát triển nhân lực tư pháp, nhân lực bổ trợ tư pháp và đạt được những kết quả nhất định.
1.5. Kết quả hợp tác quốc tế về tư pháp
Trong quá trình cải cách tư pháp, hợp tác quốc tế về tư pháp được tăng cường đáng kể và mang lại những kết quả quan trọng. Hợp tác quốc tế được tăng cường theo hướng: tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế về tư pháp mà Việt Nam đã tham gia; tiếp tục ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước; hoàn thiện chính sách, pháp luật để triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp; tham gia các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực tư pháp (Hiệp hội Công tố viên quốc tế, Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế, Liên minh công chứng quốc tế, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc); nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực tư pháp quốc tế.
1.6. Kết quả hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
Để thực hiện có hiệu quả, chất lượng sự lãnh đạo đối với công tác tư pháp, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp được hoàn thiện theo hướng: các tổ chức đảng có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp; tập trung lãnh đạo chặt chẽ về chính trị tư tưởng, tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp; quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ trong các cơ quan tư pháp.
2. Những hạn chế của cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua
2.1. Hạn chế của lý luận về quyền tư pháp, hệ thống tư pháp
Qua nghiên cứu cho thấy, bên cạnh các kết quả đạt được, việc nghiên cứu lý luận về tư pháp, cải cách tư pháp và việc sử dụng các kết quả nghiên cứu phục vụ cải cách tư pháp còn những hạn chế cơ bản sau đây:
- Lý luận về tư pháp, cải cách tư pháp chưa được hình thành một cách đầy đủ, toàn diện, hệ thống; một số vấn đề cốt lõi của tư pháp, của cải cách tư pháp chưa được luận giải một cách sâu sắc. Những vấn đề chưa được nghiên cứu, luận giải một cách đầy đủ, toàn diện, hệ thống, sâu sắc là: lịch sử hình thành và phát triển của tư pháp trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, các đặc điểm phổ quát và giá trị của chúng; lịch sử hình thành và phát triển của tư pháp trong tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam, các đặc điểm phổ quát, các đặc điểm đặc thù và xu hướng phát triển của tư pháp Việt Nam; các giá trị pháp quyền cốt lõi của tư pháp; vị thế của quyền tư pháp trong xã hội, trong cơ chế quyền lực chính trị, cơ chế quyền lực nhà nước; vai trò giám sát của quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực và giám sát quyền tư pháp; các đặc điểm đặc trưng của quyền tư pháp; tổ chức thực hiện quyền tư pháp; những vấn đề lý luận về cải cách tư pháp; những ưu tiên mang tính đột pháp của cải cách tư pháp.
- Các nghiên cứu lý luận về tư pháp, về cải cách tư pháp mới chỉ tập trung nghiên cứu phương diện thực chứng, còn các phương diện khác chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Điều đó có nghĩa rằng, các nghiên cứu về tư pháp, cải cách tư pháp phần lớn mới chỉ được tiến hành theo cách tiếp cận chuyên ngành luật học, còn các cách tiếp cận nghiên cứu khác về tư pháp, về cải cách tư pháp, chẳng hạn, cách tiếp cận pháp quyền, cách tiếp cận chính trị (quyền lực), cách tiếp cận chính sách, cách tiếp cận xã hội học chưa được chú trọng nghiên cứu, cho nên, chưa hình thành được một hệ thống những vấn đề lý luận đầy đủ, toàn diện, hệ thống, bao quát về tư pháp, về cải cách tư pháp ở nước ta.
- Chưa nghiên cứu toàn diện về tư pháp, về cải cách tư pháp, mới chỉ chú trọng nghiên cứu về tư pháp hình sự, cải cách tư pháp hình sự, tư pháp hiến pháp còn tư pháp dân sự, cải cách tư pháp dân sự, tư pháp hành chính, cải cách tư pháp hành chính, tư pháp kinh tế, cải cách tư pháp kinh tế, tư pháp lao động, xã hội, cải cách tư pháp lao động, xã hội và các loại tư pháp, cải cách các loại tư pháp khác chưa được chú trọng nghiên cứu một cách thỏa đáng. Cụ thể là: các nghiên cứu lý luận về tư pháp, về cải cách tư pháp thời gian qua chưa được triển khai đồng bộ, bao quát hết các loại hình tư pháp, do vậy, chưa thấy hết được các giá trị của tư pháp, của cải cách tư pháp; tuy rằng chưa thật đầy đủ, toàn diện, hệ thống, sâu sắc, nhưng các công trình nghiên cứu thời gian qua mới chủ yếu tập trung nghiên cứu về tư pháp hình sự, về cải cách tư pháp hình sự; các loại hình tư pháp khác như tư pháp dân sự, cải cách tư pháp dân sự, tư pháp hành chính, cải cách tư pháp hành chính đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, trong giải quyết mối quan hệ giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp ở nước ta nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức; đặc biệt tư pháp dân sự là một loại tư pháp đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển xã hội nhưng chưa được chú trọng nghiên cứu.
- Tính thực tiễn của các kết quả nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Điều này thể hiện ở những khía cạnh sau đây: các nghiên cứu vẫn mang nặng tính hàn lâm, học thuật hơn là tính luận giải về thực tiễn; các dữ liệu thực tiễn được đưa ra để lập luận cho các đề xuất, kiến nghị, giải pháp chưa thật đầy đủ, chính xác, chưa dựa vào các nghiên cứu sâu sắc mang tính xã hội học, tính triết lý sâu sắc; các đề xuất, kiến nghị, giải pháp được đưa ra chưa thật dựa vào các đặc điểm đặc thù về điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và lộ trình cải cách tư pháp ở nước ta.
- Các kết quả nghiên cứu phục vụ cải cách tư pháp chưa được sử dụng đầy đủ, hệ thống, toàn diện trong cải cách tư pháp. Tuy còn những hạn chế nhất định, song các kết quả nghiên cứu về tư pháp, về cải cách tư pháp đã tạo nên những cơ sở, nền tảng lý luận nhất định để nhận thức, luận giải về tư pháp, về cải cách tư pháp. Tuy vậy, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa sử dụng hết các giá trị, các đề xuất, các kiến nghị đã được luận chứng khá đầy đủ trong các công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp trong quá trình tiến hành cải cách tư pháp, do đó, làm hạn chế kết quả, hiệu quả, chất lượng, làm chậm tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.
2.2. Hạn chế về đổi mới chính sách pháp luật, pháp luật về tư pháp
Qua nghiên cứu cho thấy, bên cạnh các kết quả đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện chính sách pháp luật, pháp luật về tư pháp còn những hạn chế cơ bản sau đây:
- Nhà nước ta chưa có chính sách pháp luật tổng thể, hệ thống về tư pháp, cải cách tư pháp, do vậy, quá trình xây dựng luật gặp nhiều khó khăn, lúng túng, từ nội dung cho đến cách thức thể hiện. Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải nhận thức như thế nào về mối quan hệ của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020 với chính sách pháp luật về tư pháp, với xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp? Hoạt động xây dựng và hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp chỉ cần trực tiếp dựa vào và thể chế hóa các chủ trương, định hướng, nhiệm vụ nêu trong 02 Nghị quyết nêu trên (và hơn thế nữa còn trực tiếp dựa vào và thể chế hóa các chủ trương, định hướng, nhiệm vụ nêu trong các văn kiện khác của Đảng) là đủ hay còn cần phải có một chính sách pháp luật tổng thể về tư pháp từ phía Nhà nước làm định hướng mang tính mục tiêu, quan điểm, nội dung, phương tiện cho hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp?
Phải chăng chính sách pháp luật tổng thể về tư pháp là chiếc cầu nối giữa các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng và thực hiện pháp luật về tư pháp; chính sách đó, một mặt, cụ thể hóa, chi tiết hoá các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp thành chính sách pháp luật về tư pháp, mặt khác, là định hướng mang tính mục tiêu, quan điểm, nội dung, phương tiện cho hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp. Xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, như thực tiễn thế giới cho thấy, đều phải dựa vào chính sách pháp luật và các chính sách khác, do vậy, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp phải dựa vào chính sách pháp luật về tư pháp.
Chúng tôi cho rằng, để thúc đẩy cải cách tư pháp, Nhà nước ta cần xây dựng và triển khai thực hiện chính sách pháp luật về tư pháp, trong đó có hình thức xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp. Chính sách đó phải mang tính tổng thể, hệ thống, bao trùm các lĩnh vực cụ thể: chính sách hình sự (4), chính sách dân sự (5), chính sách pháp luật tố tụng tư pháp (6) và các chính sách pháp luật khác liên quan đến tư pháp, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, nội dung, phương tiện cho hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp nói chung, cho hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể nói riêng. Thiết nghĩ rằng, chính sách pháp luật như vậy sẽ đặt nền tảng cho việc nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tư pháp, thể chế hoá kịp thời, đúng đắn các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, thúc đẩy sự nghiệp cải cách tư pháp.
- Hệ thống pháp luật tư pháp chưa phù hợp với các đặc điểm, phạm vi, nội dung của quyền tư pháp, phương thức thực hiện quyền tư pháp, chưa phù hợp với thực tiễn, chưa tiên liệu được những biến đổi của thực tiễn, tính ổn định không cao. Điều này thể hiện ở chỗ, hệ thống pháp luật tư pháp với tư cách là chế độ pháp luật tư pháp chưa bảo đảm được tính độc lập của quyền tư pháp, chưa xác định vị trí trung tâm của tòa án, xét xử là hoạt động trọng tâm; chưa coi giải thích pháp luật là thẩm quyền của tòa án; chưa thực sự coi tranh tụng là phương thức văn minh của tố tụng tư pháp, của thực hiện quyền tư pháp; nhiều quy phạm pháp luật tư pháp không cụ thể, rõ ràng, chưa phù hợp với thực tiễn; tính ổn định của lĩnh vực pháp luật tư pháp không cao, hay được sửa đổi, bổ sung mang tính tản mạn, cục bộ.
- Điều chỉnh pháp luật tư pháp chưa đồng bộ, chưa hệ thống, chưa bao quát, có nhiều mâu thuẫn, vừa mang tính chung chung, vừa quá vụn vặt, chi tiết. Cụ thể là trong bản thân từng ngành pháp luật thuộc pháp luật tư pháp: pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng tư pháp, pháp luật thi hành án và các ngành pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực tư pháp chưa đồng bộ, chưa hệ thống, chưa bao quát hết những vấn đề cần được điều chỉnh; có nhiều quy định không đúng, mâu thuẫn lẫn nhau; có nhiều quy định quá chung chung, nhưng lại có nhiều quy định quá cụ thể không cần thiết; pháp luật tố tụng tư pháp chưa đồng bộ, thống nhất với pháp luật nội dung; pháp luật tư pháp và pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp chưa thực sự bảo vệ có hiệu quả quyền con người, quyền công dân.
- Pháp luật hình sự được hoàn thiện phần lớn theo xu hướng quá đề cao sự trừng trị, mở rộng tội phạm hóa, hình sự hóa quá mức cần thiết, chưa thực sự coi trọng giá trị phòng ngừa, tính nhân đạo của pháp luật hình sự. Cụ thể là tư tưởng tăng nặng, đề cao sự trừng trị vẫn chi phối trong xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự; trong nhiều trường hợp việc phân định tội phạm và vi phạm pháp luật khác chưa được rõ ràng, cụ thể; có nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến mức phải tội phạm hóa nhưng lại được tội phạm hóa; chưa quy định đầy đủ, rõ ràng chính sách khoan hồng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với những người phạm tội lần đầu tự nguyện khai báo, khắc phục hậu quả, tích cực hỗ trợ các cơ quan tiến hành tố tụng; phạm vi áp dụng hình phạt tử hình vẫn còn quá rộng; chưa thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn chưa được giảm cho phù hợp với thực tiễn áp dụng; việc áp dụng hình phạt tiền, các hình phạt không tước tự do chưa được mở rộng để phù hợp với tính nhân đạo, mối tương quan của các loại hình phạt đó với hình phạt tù có thời hạn,...
- Việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu của tố tụng trong nhà nước pháp quyền. Cụ thể là mô hình tố tụng hình sự vẫn chưa đáp ứng các đòi hỏi của đề cao tranh tụng; các nguyên tắc tố tụng tiến bộ vẫn chưa được cụ thể hóa đầy đủ, nhất quán, hệ thống trong pháp luật tố tụng hình sự; vẫn còn quan niệm phân biệt về địa vị pháp lý của các chủ thể tố tụng hình sự, chưa bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật; vai trò trọng tài của tòa án vẫn chưa được xác lập rõ.
- Việc hoàn thiện pháp luật dân sự, kinh tế vẫn chưa bảo đảm cơ sở pháp lý cho phát triển và bảo vệ các quan hệ dân sự, kinh tế trong xã hội. Cụ thể là pháp luật dân sự chưa thúc đẩy phát triển tích cực, lành mạnh các quan hệ dân sự; chưa khắc phục được các quan hệ dân sự không lành mạnh; chưa bảo đảm thiết thực quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch; chưa thực sự đầy đủ, chặt chẽ, còn nhiều chỗ hổng, kẽ hở, mâu thuẫn, chồng chéo; các chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn chưa được hoàn thiện như cần phải có; pháp luật kinh tế còn nhiều hạn chế, bất cập, kẽ hở, mâu thuẫn, chồng chéo, chưa bảo vệ tốt các quan hệ kinh tế tích cực, chưa khắc phục có hiệu quả các biểu hiện tiêu cực trong đời sống kinh tế.
- Tư pháp hành chính chưa được hoàn thiện theo đúng các nguyên tắc của tố tụng; thi hành án vẫn còn nhiều bất cập; pháp luật về tư pháp hiến pháp chưa được xây dựng. Cụ thể là pháp luật hành chính chưa hoàn thiện, còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, phân định thẩm quyền, trách nhiệm chưa thật rõ; tố tụng hành chính còn nhiều thiếu sót, hạn chế, chưa có cơ chế để buộc người ban hành quyết định hành chính bị khiếu kiện tham gia phiên tòa, chưa bảo đảm sự bình đẳng của người khiếu nại, người bị khiếu nại trước tòa án; chưa có cơ chế riêng biệt để thi hành các bản án hành chính.
- Tài phán hiến pháp chưa được thiết lập. Có thể nói, đây là hạn chế lớn nhất của cải cách tư pháp, là sự chậm trễ đã tác động không tốt đến tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua, là biểu hiện quyết tâm chính trị chưa cao trong cải cách tư pháp, cần được nhanh chóng khắc phục.
- Thực hiện pháp luật tư pháp còn nhiều vướng mắc, bất cập; hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa đầy đủ, kịp thời. Cụ thể là chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của thực hiện, đặc biệt áp dụng pháp luật tư pháp trong cơ chế điều chỉnh pháp luật tư pháp; tổ chức thực hiện pháp luật tư pháp chưa kịp thời, triệt để, đầy đủ, thực chất; nhận thức và áp dụng pháp luật về tư pháp của các ngành, các địa phương thiếu thống nhất; hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa đầy đủ, kịp thời; chưa chuẩn bị tốt các điều kiện để áp dụng pháp luật tư pháp; nhiều quan điểm, nguyên tắc, quy định mới về tư pháp chưa được nhận thức đúng, do vậy, chưa được áp dụng đúng trong thực tiễn; tư duy pháp luật cũ vẫn còn níu kéo nhiều cán bộ áp dụng pháp luật.
2.3. Hạn chế về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, đổi mới các cơ quan bổ trợ tư pháp
Bên cạnh các kết quả đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, đổi mới các cơ quan bổ trợ tư pháp còn những hạn chế rất cơ bản và có thể nói đây là điểm nghẽn lớn nhất trong cải cách tư pháp ở nước ta. Đó là:
- Nhiều chủ trương rất đúng đắn đã được đề ra về xác định tổ chức và hoạt động của tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp chưa được thực hiện hoặc thực hiện không triệt để. Cụ thể là chưa thực hiện chủ trương: “Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”; “Nghiên cứu chuyển viện kiểm sát thành viện công tố”; “Tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối”; “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án”; chưa có cơ chế kiểm sát hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát; chưa thực hiện triệt để chủ trương “tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”; “kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng”; công tác cải cách hành chính tư pháp chưa được quan tâm đúng mức. Cụ thể hơn là việc tổ chức tòa án theo đơn vị hành chính đã tác động không tích cực đến việc giải quyết các vụ án, đặc biệt các vụ án hành chính; viện kiểm sát vẫn chưa chỉ đạo đầy đủ hoạt động điều tra, chưa thực hiện hoặc thực hiện việc giám sát xét xử mang tính hình thức.
- Hệ thống tư pháp chưa đồng bộ, chưa phân hóa cao về tổ chức, chưa chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cao về cán bộ. Cụ thể là: hệ thống tổ chức và hoạt động của tòa án chưa đồng bộ với hệ thống viện kiểm sát, với hệ thống cơ quan điều tra; hệ thống tòa án chưa phân hóa cao, chưa có nhiều tòa chuyên trách về các loại vụ việc đặc thù để phúc đáp yêu cầu của thực tiễn xét xử; tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của thẩm phán, kiểm sát viên chưa cao.
- Hệ thống tổ chức và hoạt động của các tổ chức bổ trợ tư pháp chưa đạt được hiệu quả thiết thực. Cụ thể là chưa thực hiện đầy đủ chủ trương: “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư”; “thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên”; chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ, có hiệu lực pháp lý cao cho tổ chức và hoạt động của thừa phát lại.
2.4. Hạn chế về xây dựng và phát triển nhân lực tư pháp
- Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, chưa coi phát triển nhanh nguồn nhân lực tư pháp, nhân lực tư pháp, nhất là nguồn nhân lực tư pháp, nhân lực tư pháp chất lượng cao là một nội dung đột phá chiến lược của Chiến lược cải cách tư pháp.
- Chưa thực sự quyết tâm và chưa tập trung nguồn lực cần thiết để thực hiện chủ trương “Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật. Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp”, thực hiện chủ trương này chưa nhất quán, không phù hợp với chủ trương ban đầu của Nghị quyết.
- Chưa thực sự đổi mới tư duy, nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, việc đổi mới nội dung này mới mang tính cục bộ, chưa mang tính chỉnh thể, hệ thống, đồng bộ, chất lượng chưa được nâng lên như mong muốn, còn nhiều lực cản, khó khăn, vướng mắc trong đổi mới.
- Chưa xây dựng được cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có đủ tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp; chế độ chính sách tiền lương chưa phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Cơ chế xác định vị trí việc làm, biên chế cán bộ tư pháp chưa phù hợp với sự gia tăng của khối lượng công việc cần giải quyết dẫn đến tình trạng thiếu cán bộ, gây tồn đọng các vụ việc không được xem xét, giải quyết đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Việc xây dựng cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp chậm được thực hiện, chủ yếu thực hiện trong từng ngành mà chưa thực hiện được chủ trương “mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp mà còn là các luật gia, luật sư” được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Cơ cấu cán bộ các ngành tư pháp chưa hợp lý, đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Công tác quản lý, quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ có lúc, có nơi chưa căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và năng lực thực tiễn của cán bộ; chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ. Việc thực hiện quy hoạch cán bộ lãnh đạo ở một số cơ quan, tổ chức chưa theo đúng quy định của Đảng. Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ có chức danh tư pháp chưa tương xứng với tính chất nghề nghiệp, chậm được sửa đổi, hoàn thiện.
- Đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp còn thiếu so với biên chế được giao và yêu cầu thực tiễn; chưa có chính sách cụ thể thu hút người có năng lực vào làm việc tại các cơ quan tư pháp ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và trong các ngành nghề đặc thù. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế chưa được cập nhật thường xuyên; chất lượng nhân lực tư pháp chưa cao, chưa đáp ứng đòi hỏi của cải cách tư pháp hiện nay.
2.5. Hạn chế trong hợp tác quốc tế về tư pháp
Qua nghiên cứu cho thấy, bên cạnh các kết quả đạt được, hợp tác quốc tế về tư pháp còn những hạn chế nhất định. Cụ thể là: chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện một số điều ước quốc tế; chưa tiến hành thường xuyên, toàn diện việc tổng kết hợp tác quốc tế về tư pháp; đội ngũ làm công tác hợp tác quốc tế về tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Nguyên nhân của những hạn chế trong cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua
Những hạn chế nói trên của cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua có những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định.
Những nguyên nhân khách quan nằm chính ngay trong quá trình đổi mới đất nước mang tính khách quan, tất yếu, trong các điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam, trong chính lôgic của quá trình cải cách tư pháp với tư cách là lĩnh vực không thể tiến hành cải cách theo kiểu “bước nhảy” mà được tiến hành theo kiểu “tiệm tiến”, sự phát triển của các bảo đảm cho tiến trình cải cách tư pháp và các nguyên nhân khách quan khác.
Ngoài những nguyên nhân khách quan đã nêu ở trên, chúng tôi cho rằng, những nguyên nhân chủ quan sau đây làm hạn chế kết quả cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua:
- Quyết tâm chính trị chưa cao, chưa triệt để, quá thận trọng trong thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp. Có thể nói, vào giữa thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của về Cải cách tư pháp đến năm 2020, đánh dấu một bước tiến trong đổi mới tư duy chính trị pháp lý của Đảng ta về tư pháp, cải cách tư pháp ở nước ta. Điều đó thể hiện quyết tâm chính trị từ rất sớm (chỉ sau 15 năm tiến hành đổi mới) của Đảng ta về cải cách tư pháp. Nhưng thực tiễn cải cách tư pháp, kết quả của cải cách tư pháp cho thấy, sự quyết tâm chính trị của các cơ quan có thẩm quyền, có trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp chưa cao, chưa quyết liệt, chưa nhất quán. Nhiều nội dung của cải cách tư pháp mang tính tiến bộ, bản chất chưa được thực hiện một cách triệt để mà mới chỉ thực hiện những nội dung chưa mang tính thực chất. Cải cách tư pháp thận trọng là đúng, nhưng quá thận trọng, chần chừ là không cần thiết, làm chậm quá trình cải cách tư pháp, ảnh hưởng đến kết quả cải cách tư pháp. Nói tóm lại, quyết tâm chính trị của các tổ chức, cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp chưa cao, chưa triệt để, chưa quyết liệt, quá thận trọng không cần thiết, do vậy, kết quả chưa đạt được như mong muốn.
- Khoa học pháp lý nói riêng, khoa học xã hội nói chung chưa cung cấp đầy đủ các luận cứ khoa học cho cải cách tư pháp, các cơ quan có thẩm quyền chưa sử dụng một cách phù hợp để tiến hành cải cách tư pháp. Có thể nói, trong thời gian qua khoa học pháp lý đã đi tiên phong trong nghiên cứu, tham mưu, tư vấn và đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp luật cụ thể về cải cách tư pháp. Nhưng như thực tiễn cho thấy, lý luận về tư pháp, cải cách tư pháp chưa được hình thành một cách đầy đủ, toàn diện, hệ thống; một số vấn đề cốt lõi của tư pháp, của cải cách tư pháp chưa được luận giải một cách sâu sắc, cho nên, chưa cung cấp những luận cứ khoa học mang tính thuyết phục cao để thúc đẩy cải cách tư pháp. Mặt khác, các cơ quan có thẩm quyền, có trách nhiệm chưa mạnh dạn sử dụng, sử dụng chưa hết “công suất”, chưa đầy đủ, hệ thống, toàn diện các kết quả nghiên cứu để phục vụ cải cách tư pháp, cho nên, cũng làm chậm tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.
- Lợi ích ngành cản trở, còn níu kéo, chưa vì lợi ích chung của tư pháp. Cải cách tư pháp là một quá trình phức tạp, lâu dài, liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, các loại lợi ích khác nhau, nhiều khi đối lập nhau trong xã hội. Trước hết, đó là các thẩm quyền, các lợi ích của chính các cơ quan thực hiện quyền tư pháp, các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, sự điều phối, “phân bổ”, sử dụng các thẩm quyền, các lợi ích đó chi phối tiến trình cải cách tư pháp diễn ra nhanh hay chậm. Giải quyết hài hòa, đúng bản chất các thẩm quyền, các lợi ích đó sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách tư pháp. Thực tiễn cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua cho thấy, các cơ quan, tổ chức vừa là đối tượng vừa là chủ thể tiến hành cải cách tư pháp đều mong muốn duy trì, bảo vệ lợi ích ngành thông qua việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chưa vì mục tiêu, lợi ích chung của cải cách tư pháp. Điều đó được thể hiện rất rõ trong việc chưa triển khai thực hiện được các chủ trương cải cách tư pháp như đã phân tích ở trên. Có thể nói, đây là nguyên nhân chủ yếu làm chậm tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta. Cần sớm khắc phục nguyên nhân này.
- Thiếu một đội ngũ cán bộ có đủ bản lĩnh, có trình độ, có năng lực, dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm để tiến hành cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp là một sự nghiệp lâu dài, cam go của quốc gia, của xã hội đòi hỏi phải có đội ngũ những con người có đủ bản lĩnh, có trình độ, có năng lực, dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm để thực hiện. Đội ngũ cán bộ đó bao gồm cả những người lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và những người tiến hành thực hiện trên thực tế sự nghiệp cải cách tư pháp ở nước ta. Có thể nói, chúng ta đang thiếu một đội ngũ cán bộ như vậy để thực hiện cải cách tư pháp. Cần phải sớm đào tạo đội ngũ cán bộ như vậy để tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta.
4. Những vấn đề đặt ra đối với tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp thời gian tới
Từ những phân tích trên, có thể rút ra những vấn đề đối với tiếp tục cải cách tư pháp sau đây:
(1) Cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước ta với quyết tâm chính trị cao.
(2) Đổi mới cách tiếp cận đến tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
(3) Xác định rõ, chính xác mục tiêu của tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
(4) Xác định rõ các quan điểm tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
(5) Xác định đầy đủ nội dung các định hướng và nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước ta thời gian tới.
(6) Cần phải có nguồn lực cần thiết, bao gồm nhân lực và vật lực theo hướng tăng cường cho tiếp tục cải cách tư pháp.
(7) Kiến nghị:
- Xây dựng Chiến lược mới về cải cách tư pháp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội pháp quyền, nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường, hợp tác và hội nhập quốc tế và các quy luật phát triển của pháp luật, của tư pháp.
- Đưa quan điểm tăng cường quyền tư pháp, quan điểm độc lập tư pháp, tăng cường vị thế của thẩm phán vào Chiến lược mới về cải cách tư pháp.
- Kết nối Chiến lược mới về cải cách tư pháp đến năm 2021-2030, định hướng đến năm 2045 với Chiến lược phát triển pháp luật với tư cách là các Chiến lược thành tố của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
- Cần xây dựng và tiến hành thực hiện một chương trình nghiên cứu mang tính quốc gia trong giai đoạn mới 2021-2030 về cải cách tư pháp. Chương trình nghiên cứu đó phải mang tính tổng thể, toàn diện, hệ thống, tiếp cận đa chiều, liên ngành về cải cách tư pháp, tổng kết những kết quả đã đạt được, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được giải quyết về cải cách tư pháp, cung cấp những luận cứ mới cho việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong giai đoạn mới. Thiết nghĩ rằng, nên giao chương trình nghiên cứu đó cho các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học kết hợp với các cơ quan thực tiễn có liên quan thực hiện để bảo đảm tính khách quan, tính khoa học, tính bảo đảm điều hòa các lợi ích, tránh việc chỉ vì lợi ích ngành trong cải cách tư pháp.
- Cần tăng cường mọi nguồn lực cho tiếp tục cải cách tư pháp, đặc biệt nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính; đẩy mạnh phát triển nhân lực tư pháp đủ năng lực, khả năng tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp.
Tài liệu tham khảo 1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). 2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013. 3. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. 4. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020. 5. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015. 6. Báo kết quả tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 7. Võ Khánh Vinh chủ biên, Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020. 8. Võ Khánh Vinh, Về tư duy chính trị - pháp lý của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Luật học, số đặc biệt “25 năm Tạp chí luật học”, tháng 9/2019. 9. Nguyễn Hòa Bình, Xây dựng tòa án nhân dân xứng đáng là biểu tượng của công lý, lẽ phải và niềm tin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019. 10. Nguyễn Văn Quyền - Nguyễn Tất Viễn, Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Từ lý luận đến thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2018. |
GS.TS VÕ KHÁNH VINH
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam