/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

09/02/2021 16:19 |

(LSVN) - Trong hơn 30 năm đổi mới, quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) ở nước ta đã có nhiều đổi mới theo hướng ngày càng tiến bộ hơn và dần tiệm cận với quy trình lập pháp hiện đại của nhiều nước trên thế giới. Nhờ đó, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống VBQPPL tương đối đầy đủ, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Ảnh minh họa.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015) được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 9 đã đánh dấu một bước tiến mới trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL của nước ta. Với những quy định mới, tiến bộ, Luật năm 2015 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý với nhiều đổi mới trong công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Qua hơn 03 năm thi hành Luật năm 2015, nhiều quy định mới của Luật đã tác động, góp phần thay đổi tư duy và những quan niệm cũ về xây dựng pháp luật. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương đã ngày càng quan tâm và tập trung hơn về nguồn lực và thời gian cho hoạt động xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến dự án, dự thảo VBQPPL; nhận thức sâu sắc hơn về việc quy định thủ tục hành chính (TTHC) trong VBQPPL; VBQPPL do hội đồng nhân dân (HĐND), ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện, cấp xã ban hành giảm đáng kể… 

Tuy nhiên, quá trình thi hành Luật năm 2015 cũng đã phát sinh những khó khăn, vướng mắc và một số vấn đề cần tiếp tục xử lý. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tình hình mới và khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật năm 2015, ngày 18/6/2020, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật năm 2020). 

Sau khi Luật năm 2020 được Quốc hội thông qua, để bảo đảm Luật được thi hành một cách thống nhất, hiệu quả trên toàn quốc, bên cạnh việc tổ chức các hội nghị triển khai thi hành Luật, biên soạn, phát hành các tài liệu phổ biến quy định mới của Luật..., Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL, trình Chính phủ ban hành để có hiệu lực cùng với thời điểm có hiệu lực của Luật năm 2020 (ngày 01/01/2021). Ngày 31/12/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật có những điểm mới nổi bật như sau:

1. Tiếp tục khẳng định rõ hơn và đầy đủ hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, ban hành VBQPPL

Luật năm 2015 đã có nhiều quy định [1] để bảo đảm đường lối, chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành quy định pháp luật và bảo đảm các quy định pháp luật phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, từ giai đoạn lập đề nghị đến giai đoạn soạn thảo, ban hành VBQPPL. Tuy nhiên, khi rà soát các quy định cụ thể của Luật năm 2015 thì thấy rằng chưa có sự thống nhất trong việc quy định về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nhất là ở các điều về thẩm định, thẩm tra đề nghị, dự án, dự thảo VBQPPL.

Do vậy, để bảo đảm tính thống nhất với các quy định hiện hành của Luật năm 2015, Luật năm 2020 sửa 06 điều, gồm các Điều 47, 58, 92, 121, 130 và 139 để bổ sung “Sự phù hợp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản và nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước” là một trong các nội dung phải thẩm định, thẩm tra.

2. Quy định rõ hơn trách nhiệm phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL

Hiện nay, việc phản biện xã hội đối với dự thảo VBQPPL của MTTQVN được thực hiện theo quy định của Luật MTTQVN năm 2015. Về trình tự, thủ tục thực hiện phản biện xã hội đang được thực hiện theo Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQVN. Tuy nhiên, do chưa được xác định rõ trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL nên việc phản biện xã hội của MTTQVN đối với dự thảo VBQPPL chưa được thực hiện thường xuyên và hiệu quả chưa cao.

Xuất phát từ lý do nêu trên, Luật năm 2020 bổ sung vào Điều 6 quy định về phản biện xã hội của MTTQVN trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Khoản 2 Điều 6 quy định rõ thời điểm phản biện xã hội được thực hiện trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo VBQPPL và trường hợp dự thảo VBQPPL đã được phản biện xã hội thì hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền phải bao gồm văn bản phản biện xã hội. Các nội dung khác liên quan đến phản biện xã hội được thực hiện theo quy định của Luật MTTQVN.

Như vậy, theo quy định của Luật năm 2020 thì MTTQVN vừa tham gia góp ý kiến như các cơ quan, tổ chức khác, vừa thực hiện phản biện xã hội đối với dự thảo VBQPPL. Việc bổ sung hoạt động phản biện xã hội vào Luật Ban hành VBQPPL thể hiện rõ tính dân chủ, công khai trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta, qua đó góp phần nâng cao chất lượng của hệ thống VBQPPL. 

3. Bổ sung một số hình thức VBQPPL để phù hợp với các luật hiện hành và đáp ứng yêu cầu thực tiễn

Thứ nhất, về hình thức nghị quyết liên tịch:

Để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật MTTQVN năm 2015 [2]; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân năm 2015 và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Luật năm 2020 bổ sung hình thức nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Ủy ban Trung ương MTTQVN (nghị quyết 03 bên) vào khoản 3 Điều 4 (Hệ thống VBQPPL) của Luật năm 2015.

Thứ hai, về hình thức thông tư liên tịch:

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019) và trực tiếp là Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 [3] thì Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, khi chuyển hồ sơ, tài liệu có liên quan và kiến nghị xem xét, khởi tố vụ án hình sự. Hơn nữa, thực tiễn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 2462/2007/TTLT-TTCP-VKSNDTC-TANDTC-KTNN-BQP-BCA-BTC ngày 19/11/2007 quy định về việc trao đổi, quản lý và sử dụng thông tin, dữ liệu phòng, chống tham nhũng.

Do vậy, để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời nhằm tiếp tục phát huy hiệu lực, hiệu quả phối hợp giữa Kiểm toán nhà nước với các cơ quan có liên quan trong công tác phòng, chống tham nhũng, Luật năm 2020 bổ sung khoản 8a vào Điều 4 của Luật năm 2015 để quy định thêm hình thức thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Theo quy định tại khoản 8a nêu trên thì Tổng kiểm toán nhà nước có thể liên tịch với một hoặc nhiều chủ thể là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ để ban hành thông tư liên tịch.

4. Tiếp tục hoàn thiện quy định về thẩm quyền ban hành, nội dung ban hành VBQPPL của HĐND, UBND cấp huyện, cấp xã 

Thứ nhất, mở rộng phạm vi loại văn bản có thể giao cho cấp huyện, cấp xã ban hành VBQPPL, theo đó, ngoài trường hợp được ban hành VBQPPL để quy định những vấn đề được luật giao như quy định của Luật năm 2015, Luật năm 2020 bổ sung trường hợp HĐND, UBND cấp huyện cấp xã ban hành VBQPPL để quy định những vấn đề được “nghị quyết của Quốc hội giao”. Bởi vì, cùng với luật thì nghị quyết cũng là VBQPPL của Quốc hội, thể hiện ý chí của Quốc hội. Hơn nữa, thực tiễn cho thấy một số nghị quyết của Quốc hội đã giao cho cấp huyện, cấp xã quy định chi tiết hoặc giao nhiệm vụ cho cấp huyện, cấp xã, mà muốn thực hiện được thì phải ban hành VBQPPL.

Thứ hai, mở rộng nội dung ban hành VBQPPL của HĐND, UBND cấp huyện để phù hợp với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 13 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì cấp huyện có thẩm quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình và việc phân cấp phải được thể hiện trong VBQPPL của cơ quan nhà nước phân cấp. Tuy nhiên, Điều 30 của Luật năm 2015 chưa quy định HĐND, UBND cấp huyện được ban hành VBQPPL trong trường hợp này. Do vậy, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của HĐND, UBND cấp huyện trong trường hợp thực hiện phân cấp theo đúng quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật năm 2020 bổ sung quy định “Hội đồng nhân dân cấp huyện ban hành nghị quyết, ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định... để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương” vào Điều 30 của Luật năm 2015. Đồng thời, tách Điều 30 thành 2 khoản, trong đó khoản 1 quy định về ban hành VBQPPL của chính quyền cấp huyện và khoản 2 quy định về ban hành VBQPPL của chính quyền cấp xã để tránh nhầm lẫn khi áp dụng.

5. Nâng cao trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết

Đánh giá 03 năm thi hành Luật năm 2015 cho thấy còn có hạn chế, vướng mắc trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý một số dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết, nhất là đối với các bộ luật, đạo luật lớn, nội dung phức tạp với nhiều chính sách mới được bổ sung theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, vướng mắc nêu trên là do Luật năm 2015 chưa quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan và sự phối hợp giữa các cơ quan này trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết.

Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc nêu trên, đồng thời, thực hiện yêu cầu của Ban Bí thư về việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy trình xây dựng pháp luật theo hướng phân công hợp lý, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý, thông qua, ban hành luật, Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung 04 điều (Điều 74, 75, 76 và 77) để làm rõ và nâng cao hơn trách nhiệm, hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, bổ sung quy định “Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo có ý kiến bằng văn bản về những nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo, trong đó nêu rõ vấn đề có ý kiến khác với dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và đề xuất phương án để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội” (điểm b khoản 7 Điều 74, điểm b khoản 2 Điều 75, điểm e khoản 1 Điều 77). Quy định này giúp xác định rõ ràng hơn trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo. Theo đó, trên cơ sở dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và dự thảo luật, pháp lệnh đã được chỉnh lý, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình phải có ý kiến chính thức bằng văn bản về những nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Đối với những vấn đề có ý kiến khác với dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý thì phải nêu rõ ý kiến về những vấn đề đó và đề xuất phương án xử lý cụ thể. Như vậy, ngay cả trường hợp thống nhất hoặc không thống nhất với cơ quan chủ trì thẩm tra thì cơ quan trình đều phải có văn bản thể hiện rõ ý kiến của mình để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thứ hai, bổ sung quy định “Đối với những chính sách mới được đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung vào dự thảo luật thì trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan trình dự án có trách nhiệm tổ chức đánh giá tác động của chính sách để báo cáo Quốc hội” (điểm a khoản 2 Điều 75, điểm b khoản 2 Điều 76). Tuy nhiên, không phải tất cả những chính sách mới mà đại biểu Quốc hội và nhân dân đề nghị bổ sung vào dự thảo luật đều phải thực hiện đánh giá tác động mà việc đánh giá tác động của chính sách chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết và có yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thứ ba, bổ sung quy định “Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong trường hợp cần thiết để thảo luận, cho ý kiến đối với những dự án, dự thảo có những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn còn nhiều ý kiến khác nhau” (điểm d khoản 2 Điều 75).

Thứ tư, bổ sung quy định “Tổng thư ký Quốc hội tổ chức tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội, kết quả biểu quyết để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội và gửi cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo” (khoản 6 Điều 74, điểm c khoản 3 Điều 75).

Thứ năm, quy định rõ hơn trách nhiệm phối hợp của Bộ Tư pháp trong suốt quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, dự thảo nghị quyết giữa 2 kỳ họp của Quốc hội. Theo đó, Bộ Tư pháp có trách nhiệm phối hợp với thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo và Thường trực Ủy ban Pháp luật để nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và hoàn thiện dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội (điểm đ khoản 2 Điều 75).

6. Về quy trình xây dựng, ban hành một số loại VBQPPL

Để xác định hợp lý, sát thực tế hơn các văn bản cần thiết phải lập đề nghị theo quy trình chính sách, Luật năm 2020 bỏ yêu cầu lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách đối với nghị định của Chính phủ quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung các Điều 84, 85, 87, 88, 89, 90, 92 và Điều 93 của Luật năm 2015 để quy định cụ thể trình tự, thủ tục đề nghị xây dựng và soạn thảo nghị định tại khoản 2 Điều 19; sửa đổi, bổ sung các Điều 111, 117, 119, 121 và 122 của Luật năm 2015 để quy định cụ thể trình tự, thủ tục đề nghị xây dựng và soạn thảo nghị quyết tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27. 

Theo quy định mới của Luật năm 2020, các nghị định quy định tại khoản 2 Điều 19 và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Luật năm 2015 không phải xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn lập đề nghị, không phải tổ chức lấy ý kiến, thẩm định đề nghị. Riêng đối với đề nghị xây dựng nghị định của Chính phủ quy định tại khoản 2 Điều 19 thì không phải đưa ra phiên họp của Chính phủ để thông qua đề nghị, mà báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Những nội dung sửa đổi này giúp Chính phủ và chính quyền địa phương rút ngắn thời gian ban hành văn bản và tăng cường khả năng phản ứng nhanh của Chính phủ và chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ trong việc ban hành các văn bản này, Luật đã chuyển việc đánh giá tác động trong giai đoạn lập đề nghị sang giai đoạn soạn thảo (Điều 90 và Điều 119). Mục đích của quy định này nhằm nâng cao chất lượng của dự thảo văn bản và bảo đảm tính khả thi của văn bản.

7. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn

Việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn đã được quy định trong Luật năm 2015 và trước đó là Luật Ban hành VBQPPL năm 2008. Tuy nhiên, quá trình thi hành Luật năm 2015 cho thấy quy định của Luật năm 2015 chưa bao quát hết các trường hợp cần phải ban hành văn bản trong thời gian nhanh nhất có thể để kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Bên cạnh đó, việc Luật năm 2015 không cho phép ban hành thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo trình tự, thủ tục rút gọn là chưa phù hợp. Do vậy, để tiếp tục hoàn thiện các quy định về xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các bộ, ngành, địa phương, Luật năm 2020 đã bổ sung 03 trường hợp được áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn vào Điều 146, gồm: trường hợp cần bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn; trường hợp cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Điều 147 bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc quyết định cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của bộ trưởng, hủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn quy định tại khoản 1 Điều 146. 

8. Về quy định TTHC mới hoặc sửa đổi, bổ sung TTHC đã ban hành trong VBQPPL

Luật năm 2015 chỉ cho phép quy định TTHC trong thông tư, thông tư liên tịch, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước và VBQPPL của chính quyền địa phương trong trường hợp được giao trong luật và không cho phép quy định TTHC trong trường hợp HĐND ban hành nghị quyết để quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội mà cần thiết phải quy định TTHC để thực hiện các biện pháp đặc thù đó.

Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 172 của Luật năm 2015 cho phép các TTHC trong VBQPPL do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều 14 của Luật này được ban hành trước ngày 01/7/2016 được tiếp tục áp dụng cho đến khi bị bãi bỏ hoặc bị thay thế bằng TTHC mới mà không cho phép sửa đổi, bổ sung các TTHC này, kể cả việc sửa đổi theo hướng đơn giản hơn, ít tốn kém thời gian, tiền bạc hơn đối với người dân và doanh nghiệp. 

Để khắc phục khó khăn, vướng mắc của bộ, ngành, địa phương trong việc sửa đổi, bổ sung quy định về TTHC trong các thông tư và VBQPPL của chính quyền địa phương đã được ban hành trước ngày Luật năm 2015 có hiệu lực và quy định TTHC trong nghị quyết của HĐND cấp tỉnh về biện pháp đặc thù của địa phương quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật năm 2015, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung Điều 14 và Điều 172 của Luật năm 2015. Theo đó, bổ sung trường hợp ngoại lệ cho phép HĐND cấp tỉnh được quy định TTHC trong trường hợp cần thiết phải quy định TTHC trong nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; cho phép sửa đổi, bổ sung các VBQPPL có quy định TTHC được ban hành trước ngày 01/7/2016 với điều kiện không được làm phát sinh TTHC mới hoặc quy định thêm thành phần hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, tăng thời gian giải quyết TTHC đang áp dụng.

9. Nâng cao trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong việc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh

Theo quy định tại Điều 63 của Luật năm 2015 thì Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ tham gia thẩm tra dự án luật, pháp lệnh do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Luật năm 2015 cũng không yêu cầu các cơ quan này phải gửi văn bản tham gia thẩm tra đến cơ quan chủ trì thẩm tra. 

Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trường hợp chưa thực sự sát với lĩnh vực phụ trách của cơ quan được phân công tham gia thẩm tra. Việc tham gia thẩm tra của các cơ quan được phân công đôi khi còn chưa đầy đủ và chưa hiệu quả. Ngoài ra, nội dung các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thường rất phức tạp và có liên quan đến lĩnh vực phụ trách của Hội đồng dân tộc và tất cả các ủy ban của Quốc hội.

Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh thì cần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra các dự án, dự thảo. 

Từ lý do nêu trên, Luật năm 2020 sửa đổi Điều 63 để quy định các cơ quan của Quốc hội đều có trách nhiệm tham gia thẩm tra về những nội dung của dự án luật liên quan đến lĩnh vực mà mình phụ trách. Quy định này giúp nâng cao trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban, bảo đảm các dự án trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thẩm tra toàn diện, từ đó nâng cao chất lượng của văn bản. 

10. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan có thẩm quyền ban hành VBQPPL trong quá trình soạn thảo, ban hành VBQPPL

Thứ nhất, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch của hệ thống pháp luật, Luật năm 2020 bổ sung vào khoản 2 Điều 12 quy định: “Trường hợp văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của VBQPPL do mình đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”. Quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, cơ quan ban hành VBQPPL phải rà soát kỹ các văn bản do mình ban hành với văn bản mới, góp phần khắc phục tình trạng xung đột, mâu thuẫn có thể xảy ra giữa các VBQPPL và tránh lạm dụng quy định tại khoản 3 Điều 156, dẫn đến tình trạng văn bản ban hành sau “phủ định” văn bản ban hành trước.

Cũng tại Điều 12 của Luật năm 2015, Luật năm 2020 sửa đổi khoản 2 để quy định linh hoạt hơn đối với việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của VBQPPL do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới. Theo đó, “Khi ban hành VBQPPL, cơ quan ban hành văn bản phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của VBQPPL do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới đó...” thay vì yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ ngay trong văn bản mới đó như quy định của Luật năm 2015.

Thứ hai, sửa đổi các Điều 58, 59, 62, 64, 92 và Điều 93 của Luật năm 2015 để bổ sung trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc xây dựng Báo cáo về rà soát các VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo và quy định rõ Báo cáo rà soát là một trong những tài liệu bắt buộc trong hồ sơ gửi thẩm định, thẩm tra, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua.

[1] Xem các Điều 39, 65, 88, 98, 102 và 124 của Luật năm 2015.

[2] Xem khoản 5 Điều 27 và khoản 4 Điều 34 của Luật MTTQVN năm 2015.

[3] Xem khoản 1 Điều 88 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

NGUYỄN HỒNG TUYỀN

Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật

Bộ Tư pháp

Quyền quyết định thực nghiệm điều tra của thẩm phán chủ tọa phiên tòa

Lê Minh Hoàng