Theo hồ sơ vụ án, do mâu thuẫn trước đó, khi thấy người từng xô xát với mình có mặt tại sân bóng, bị cáo đã gọi bạn mang gậy ba khúc đến để phòng thân. Sau khi đá bóng xong, bị cáo dùng gậy ba khúc tấn công khiến nạn nhân bị thương tích 02%. Hành vi dùng hung khí nơi công cộng khiến bị cáo bị khởi tố về tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năn 2017 (BLHS). Trong giai đoạn điều tra và truy tố, bị cáo đã bồi thường thiệt hại, người bị thương tích có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Trong Kết luận điều tra và Cáo trạng đều ghi nhận tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo vì “tự nguyện bồi thường thiệt hại” và “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo điểm b và điểm s Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát bất ngờ rút lại tình tiết giảm nhẹ “tự nguyện bồi thường thiệt hại” vì cho rằng người bị thương tích không phải “bị hại” của tội gây rối trật tự công cộng. Tòa án chấp nhận quan điểm này, gây nên tranh luận rộng rãi về tính đúng đắn trong cách áp dụng pháp luật.
Để đánh giá vấn đề, cần trở lại với bản chất khách thể của tội gây rối trật tự công cộng. Theo Điều 318 và các văn bản hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, trật tự công cộng là trạng thái ổn định, nề nếp của các hoạt động xã hội nơi công cộng. Hành vi gây rối là những hành vi xâm phạm sự ổn định chung, gây hoảng loạn, làm gián đoạn sinh hoạt, ảnh hưởng đến an ninh - trật tự tại nơi công cộng. Khách thể bị xâm phạm không phải cá nhân cụ thể mà là môi trường công cộng. Thiệt hại về sức khỏe hay tài sản không phải dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm, mà chỉ là hệ quả có thể phát sinh.
Tuy nhiên, việc khách thể là trật tự công cộng không đồng nghĩa với việc các cá nhân bị thiệt hại trong vụ án không liên quan gì đến trách nhiệm của người phạm tội. Trong rất nhiều vụ việc, người bị thương hoặc chủ tài sản bị hư hỏng vẫn là người chịu hậu quả thực tế của hành vi gây rối và có quyền yêu cầu bồi thường. Việc người phạm tội bồi thường cho họ thể hiện thiện chí khắc phục hậu quả, điều mà pháp luật coi trọng khi đánh giá nhân thân và mức độ nguy hiểm của hành vi.
Điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS hoàn toàn không yêu cầu người nhận bồi thường phải là “bị hại” theo nghĩa “khách thể” trong cấu thành tội phạm. Tình tiết giảm nhẹ được áp dụng khi có việc “tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”, miễn là thiệt hại đó bắt nguồn từ hành vi phạm tội. Do đó, việc lập luận rằng “người bị đánh không phải khách thể tội phạm nên không được giảm nhẹ” là cách hiểu máy móc, không phù hợp với nội dung điều luật và trái với thực tiễn xét xử.
Trong vụ án tại sân bóng, thương tích 02% của người bị đánh là hậu quả trực tiếp và khách quan phát sinh từ hành vi phạm tội. Dù thương tích không phải dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội gây rối, nhưng đó vẫn là hậu quả không thể tách rời với hành vi dùng hung khí nơi công cộng. Người bị đánh không phải là khách thể của Điều 318, nhưng họ là người bị thiệt hại thực tế, có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Khi bị cáo bồi thường thiệt hại cho người này, hành vi đó đã đáp ứng đúng bản chất của việc “bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” theo điểm b Điều 51. Việc bác bỏ tình tiết giảm nhẹ với lý do không đúng bản chất khách thể không chỉ thiếu căn cứ mà còn đi ngược với chính tinh thần nhân đạo của luật hình sự.
Trên thực tế, nhiều vụ án gây rối khác đã áp dụng thống nhất tình tiết giảm nhẹ khi bị cáo bồi thường thiệt hại cho người bị ảnh hưởng. Ví dụ như các vụ đánh nhau tại quán Karaoke gây hỏng bàn ghế, xô xát tại chợ làm đổ vỡ hàng hóa, các bị cáo bồi thường cho chủ tài sản và được ghi nhận tình tiết giảm nhẹ. Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP ban hành ngày 30/09/2025 cũng không chỉ định cụ thể chủ thể nhận bồi thường; thậm chí, chỉ cần người phạm tội nộp khoản tiền vào tài khoản tạm giữ của cơ quan tiến hành tố tụng cũng được coi là hành vi khắc phục hậu quả. Điều này cho thấy pháp luật không hề giới hạn đối tượng bồi thường phải là bị hại theo cấu thành tội phạm.
Tình huống trở nên bất hợp lý khi xem xét thiệt hại phát sinh đối với chủ sân bóng. Dù sân bóng thuộc sở hữu cá nhân, nhưng xét theo thông lệ xét xử, đây là địa điểm công cộng. Nếu tài sản sân bóng bị hư hỏng, bị cáo bồi thường, nhưng chủ sân bóng lại không được xem là đối tượng mà việc bồi thường có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì điều đó tạo nên nghịch lý: một địa điểm tư nhân được coi là nơi công cộng để xử lý bị cáo theo Điều 318, nhưng chủ tài sản lại không được công nhận là người bị thiệt hại trong vụ án để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người đã gây ra thiệt hại. Như vậy, bồi thường hay không bồi thường cũng không ảnh hưởng đến hình phạt, điều này đi ngược với mục tiêu khuyến khích khắc phục hậu quả của pháp luật hình sự.

Luật sư Lê Hồng Quang (ngoài cùng bên phải) tham gia phiên tòa để bào chữa cho bị cáo.
Về phương diện lý luận hình sự, hậu quả của tội phạm bao gồm hậu quả pháp lý đối với khách thể và hậu quả thực tế đối với những cá nhân hoặc tổ chức liên quan. Luật hình sự không hề loại trừ việc xem xét hậu quả ngoài cấu thành khi đánh giá tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, việc đồng nhất hậu quả cấu thành với hậu quả thực tế để phủ nhận tình tiết giảm nhẹ là thiếu cơ sở khoa học và không phản ánh đầy đủ thực tế vụ án.
Bên cạnh đó, việc Viện kiểm sát rút tình tiết giảm nhẹ tại phiên tòa mà không có căn cứ pháp lý mới là điều gây tranh cãi lớn. Kết luận điều tra và Cáo trạng đều xác định việc tự nguyện bồi thường của bị cáo là tình tiết giảm nhẹ. Việc thay đổi quan điểm tố tụng tại phiên tòa cần có cơ sở rõ ràng và thuyết phục, bởi nguyên tắc nhất quán và ổn định trong đánh giá chứng cứ, tình tiết là yêu cầu quan trọng trong bảo đảm công bằng tố tụng. Trong khi đó, hồ sơ vụ án không cho thấy việc bồi thường là không tự nguyện hay không liên quan đến hậu quả của hành vi. Vì vậy, việc rút tình tiết giảm nhẹ không phù hợp với tinh thần của pháp luật và đi ngược lại nguyên tắc khoan hồng đối với người phạm tội.
Nếu tiếp tục duy trì cách hiểu này, người phạm tội sẽ không còn động lực bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Điều này dẫn đến hệ quả tiêu cực: người phạm tội chọn cách “phó mặc” hậu quả vì hành vi thiện chí không được pháp luật ghi nhận. Chính sách hình sự luôn nhấn mạnh giáo dục, cải tạo và hướng thiện; vì vậy, việc từ chối ghi nhận hành vi bồi thường vừa không nhân văn, vừa làm suy giảm hiệu quả của pháp luật trong thực tiễn.
Từ góc nhìn rộng hơn, vụ án đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc thống nhất cách hiểu giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong xác định hậu quả, bị hại và tình tiết giảm nhẹ của tội gây rối trật tự công cộng. Hậu quả thực tế của hành vi phạm tội có thể vượt xa phạm vi khách thể của cấu thành cơ bản, và việc đánh giá tình tiết giảm nhẹ cần dựa trên tổng thể các yếu tố khách quan, không chỉ dựa vào khái niệm pháp lý hẹp về “bị hại”.
Từ tất cả những phân tích trên, có thể khẳng định việc Kiểm sát viên rút tình tiết giảm nhẹ và việc Tòa án không áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo trong vụ án xảy ra tại sân bóng như đề cập ở trên là không phù hợp với tinh thần và nội dung của BLHS, của chính sách hình sự. Dù người bị đánh hay chủ sân bóng không phải là khách thể của tội gây rối trật tự công cộng, nhưng họ vẫn là người chịu thiệt hại trực tiếp phát sinh từ hành vi phạm tội. Khi bị cáo bồi thường cho những người này, đó là hành vi khắc phục hậu quả đúng nghĩa, phù hợp để được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51. Việc từ chối áp dụng tình tiết này không chỉ thiếu cơ sở pháp lý mà còn mâu thuẫn với chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự và làm phát sinh những bất cập trong thực tiễn xét xử.
Để bảo đảm tính công bằng, thống nhất và nhân đạo của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nhanh chóng thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật đối với vấn đề này. Một hệ thống pháp lý chỉ thực sự hiệu quả khi vừa bảo đảm trật tự xã hội, vừa tạo điều kiện để người phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm và tái hòa nhập cộng đồng.
Luật sư, Thạc sĩ LÊ HỒNG QUANG
Công ty luật Hà Phi
Đoàn luật sư TP. HCM

