/ Nghề Luật sư
/ Trách nhiệm của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng

Trách nhiệm của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng

10/10/2023 05:41 |

(LSVN) - Bài viết nghiên cứu về trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng được ràng buộc thông qua các cam kết theo hợp đồng dịch vụ pháp lý và quy định của pháp luật thể hiện qua các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong việc thực hiện các vụ, việc được khách hàng giao phó. Nghiên cứu cũng làm rõ những hạn chế theo cam kết về trách nhiệm của Luật sư với khách hàng do không phù hợp với các quy định, gây nên những tranh chấp, thậm chí gây thiệt hại cho khách hàng. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra các khuyến nghị nhằm thống nhất áp dụng và sửa bổ sung các quy định giúp cho việc thực hiện các cam kết của luật sư rõ ràng, minh bạch hơn, đáp ứng các nhiệm vụ của luật sư, đúng với quy định của pháp luật, nâng cao hơn nữa năng lực hoạt động nghề nghiệp, góp phần tăng cường cải cách tư pháp, bảo vệ tối ưu các quyền lợi hợp pháp của khách hàng trong bối cảnh hiện nay.

Ảnh minh họa.

Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực Luật sư có sự phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư được khẳng định, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực hoạt động nghề nghiệp với tư cách bỗ trợ tư pháp. Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động nghề Luật sư, Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi năm 2012 (Luật Luật sư) đã tạo nên hành lang pháp lý đối với nghề Luật sư, khẳng định tầm quan trọng không thể thiếu được của Luật sư trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng cho thân chủ trong bối cảnh kinh tế, xã hội hiện nay.

Thực tiễn khi cung cấp các dịch vụ pháp lý cho khách hàng, hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn, bất cập, thậm chí xung đột trong việc xác định phạm vi trách nhiệm và ràng buộc các trách nhiệm này đối với Luật sư để bảo đảm tối ưu các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của khách hàng như đúng nghĩa.
Các quy định của pháp luật luôn đặt ra những trách nhiệm của chính người Luật sư hoặc thông qua các tổ chức hành nghề Luật sư, bao gồm cả việc điều chỉnh các quan hệ giữa Luật sư/tổ chức hành nghề Luật sư với các chủ thể khác, trong đó có quan hệ giữa Luật sư đối với khách hàng. Song việc “định danh” quan hệ này cần được nghiêm túc xem xét dưới nhiều góc cạnh, cả về phương diện pháp lý và đạo đức nghề nghiệp mới có thể lột tả đầy đủ những đặc tính của nó. Thêm vào đó, do đặc thù của hoạt động nghề nghiệp, các cam kết của Luật sư với khách hàng thường không thể hiện đầy đủ trách nhiệm của Luật sư trong các vụ việc được khách hàng giao phó thông qua hợp đồng dịch vụ pháp lý (HĐDVPL) được ký kết. Điều này được minh chứng như sau:

Thứ nhất, quan hệ giữa Luật sư với khách hàng trước hết được thực hiện qua các HĐDVPL được ký kết bằng văn bản, có giá trị ràng buộc. Các thỏa thuận theo HĐDVPL này về nguyên tắc phải tuân thủ Luật Luật sư và các quy định của pháp luật chuyên ngành khi thực hiện công việc có liên quan đến lĩnh vực đó.

Những thỏa thuận này cũng không được trái với Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư(1).

Đây là hình thức pháp lý thể hiện cam kết và ràng buộc về trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng một cách rõ nét. Đồng nghĩa rằng nếu Luật sư vi phạm các điều khoản của hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm, kể cả bồi thường thiệt hại khi có hậu quả gây ra. Song do đây là dạng hợp đồng đặc thù, nội dung của điều khoản hợp đồng thường không thể hiện đầy đủ các trách nhiệm của Luật sư để đánh giá một cách đúng đắn. Bởi lẽ, tuy HĐDVPL được ký kết, song Luật sư với vai trò là người tư vấn hoặc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng trong các quan hệ hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính…, liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi thực hiện vụ việc được giao phó, các vụ việc này thường gắn bó mật thiết với các quyền và nghĩa vụ của Luật sư ở các vị trí pháp lý khác nhau khá phức tạp.

Thứ hai, mặc dù các quy chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của Luật sư được đặt ra, song nó chỉ phát huy tác dụng khi mối quan hệ giữa các nghĩa vụ của HĐDVPL với các nghĩa vụ theo các vụ việc mà Luật sư tham gia phải thể hiện được đầy đủ, rõ ràng cả về nội dung thỏa thuận hợp đồng và quy định của pháp luật.

Thứ ba, trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng về phương diện pháp lý còn bao gồm việc xem xét lỗi do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng; nghĩa vụ, quyền hạn của Luật sư khi thực hiện vụ việc được khách hàng giao. Do đó, việc xác định phạm vi trách nhiệm và những liên hệ với các quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi thực hiện vụ việc cụ thể nếu không rõ ràng thì hệ quả sẽ gặp những khó khăn khi xác định lỗi để xử lý khi có tranh chấp xảy ra.

Từ những vấn đề trên cho thấy, làm rõ trách nhiệm của Luật sư trong việc bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, trước hết HĐDVPL phải thể hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các bên, nhất là khi Luật sư làm đại diện theo ủy quyền đối với vụ việc khách hàng giao phó. Nếu không sẽ thiếu rõ ràng, thậm chí nguy cơ gây ra những thiệt hại cho khách hàng khi không thực hiện tối ưu các biện pháp được pháp luật cho phép, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của khách hàng và uy tín của Luật sư.

Trách nhiệm của Luật sư và khách hàng theo HĐDVPL được ký kết

Đối với Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư

Trách nhiệm thông tin đầy đủ về việc thực hiện vụ việc

Bài viết đề cập đến trách nhiệm của Luật sư trong quan hệ với khách hàng cần được hiểu theo nghĩa rộng. Các trách nhiệm này theo lẽ thông thường trước hết phải thông qua hợp đồng cụ thể. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cá nhân các Luật sư không thể tự mình xác lập giao dịch và thực hiện các vụ việc theo yêu cầu của khách hàng mà hoạt động thường thông qua các tổ chức hành nghề Luật sư có chức năng và được thành lập hợp pháp. Với tư cách là chủ thể của giao dịch (HĐDVPL), tổ chức hành nghề Luật sư chủ động soạn thảo, đàm phán với khách hàng về các điều khoản của hợp đồng.

Dù vậy, khi thực hiện các vụ việc cụ thể, các Luật sư vẫn chính là người trực tiếp thực hiện các dịch vụ theo các cam kết của chính tổ chức hành nghề Luật sư ký kết với khách hàng. Điều này được thể hiện rõ hơn khi Luật sư tham gia các hoạt động bào chữa hoặc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Khi đó vị trí và uy tín, việc làm của Luật sư đó không thể thiếu được do gắn với hiệu quả của vụ việc. Thêm vào đó, khi thực hiện nhiệm vụ với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi hợp pháp tại Tòa án, trọng tài, các quy định pháp luật đều khẳng định sự tham gia của chính cá nhân Luật sư với các quyền hạn và nghĩa vụ khá cụ thể. 

Với chức năng của một bên cung ứng dịch vụ pháp lý, việc tổ chức hành nghề Luật sư tự chủ động soạn thảo các hợp đồng không tránh khỏi sự thiếu công bằng, nếu:

(i) Giới hạn phạm vi vụ việc so với công việc thực tế phải làm.

(ii) Giới hạn các hoạt động nghề Luật sư giải quyết vụ việc.

(iii) Loại bỏ trách nhiệm/phần trách nhiệm khi có rủi ro xảy ra.

Chẳng hạn, vụ án dân sự, kinh tế thông thường được xét xử ở các cấp sơ thẩm, phúc thẩm, kể cả cấp giám đốc thẩm. Luật sư cần hướng dẫn khách hàng rõ ràng các quy định của pháp luật tố tụng và trao cho khách hàng quyền lựa chọn Luật sư ở từng cấp xét xử. Khi đó khách hàng nhận thức rõ tính chất phức tạp của hoạt động tố tụng, tự quyết định lựa chọn Luật sư tham gia vụ án ở cấp xét xử nào với mức thù lao phù hợp thay vì tin rằng, vụ án chỉ giải quyết ở cấp sơ thẩm và chỉ tập trung công sức, tiền bạc cho việc nhờ Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền lợi ở cấp xét xử này.

Như vậy, Luật sư/tổ chức hành nghề Luật sư khi tiếp xúc với khách hàng trước hết phải có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ về vụ việc mà khách hàng yêu cầu thực hiện. Đó không chỉ bảo đảm cho vụ việc được thực hiện đầy đủ, thông suốt khi Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng mà còn giúp cho khách hàng an tâm về các yêu cầu của mình đã được Luật sư bảo vệ, tránh trường hợp thiếu sót, gây thiệt hại hoặc tốn kém chi phí ngoài dự liệu của khách hàng. Thực tế cho thấy tình trạng này xảy ra khá phổ biến làm nảy sinh mâu thuẫn khi ký kết, thực hiện HĐDVPL. Về vấn đề này, xuất phát từ các quy định của pháp luật phức tạp nên chỉ đơn thuần dựa vào các quy định này thì khó xác định đúng, sai. Song với vai trò là bên cung ứng dịch vụ pháp lý, Luật sư phải có nghĩa vụ cung cấp các thông tin đầy đủ và kịp thời. Điều này không chỉ để bảo đảm hợp đồng minh bạch mà còn bảo đảm khả năng thực hiện hợp đồng đối với khách hàng.

Các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin về việc thực hiện vụ việc của Luật sư đối với khách hàng nhìn chung chưa được đề cập đến. Các quy chuẩn về đạo đức nghề nghiệp Luật sư được ban hành mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận chung về tiếp nhận vụ việc với khách hàng.

Trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi hoạt động nghề nghiệp, thực hiện vụ việc của khách hàng
Các quy định hiện hành về trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng đề cập trong Luật Luật sư bao gồm cả việc giữ bí mật thông tin, các cam kết trong khuôn khổ của HĐDVPL được ký kết…; bên cạnh đó là các trách nhiệm của Luật sư trước pháp luật trong quá trình hoạt động nghề nghiệp nhằm giải quyết vụ việc theo yêu cầu của khách hàng được ràng buộc bằng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp (sự tận tâm, tối ưu hóa các quyền lợi của khách hàng, tuân thủ pháp luật…).

Tùy vào từng vụ việc cụ thể khách hàng yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của Luật sư cũng khác biệt. Điều này xuất phát từ các quy định của pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động đó có sự khác nhau. Chẳng hạn, trong các quy định về việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận đầu tư,… Luật sư thông thường nếu đại diện cho doanh nghiệp khi tham gia làm dịch vụ phải tuân thủ các quy định của pháp luật về các thủ tục này. Điều này cho thấy có sự khác biệt cơ bản đối với các vụ việc có liên quan đến hoạt động tố tụng tại Tòa án, trọng tài.
 
Nếu đơn thuần chỉ dựa vào các quy định của Luật Luật sư thì khó có thể lột tả đầy đủ quyền và nghĩa vụ của Luật sư. Thực tế cho thấy, chính các quy định và tuân thủ các quy định về đạo đức nghề nghiệp Luật sư cũng là thước đo đánh giá chất lượng dịch vụ được thực hiện. Song, nếu cụ thể hóa bằng cam kết hoặc bằng các quy định ràng buộc cụ thể hiệu quả về mặt pháp lý sẽ cao hơn rất nhiều.

Chẳng hạn, trong một hợp đồng có ghi Luật sư tham gia đại diện bảo vệ quyền lợi cho đến khi vụ án được giải quyết xong. Trường hợp đương sự không tiếp tục yêu cầu Luật sư thực hiện vụ việc thì xử lý thế nào? Luật sư có phải hoàn lại khoản thù lao đã nhận? Có thể thấy tình trạng này xảy ra khá phổ biến trong thực tiễn tranh chấp giữa Luật sư với khách hàng hiện nay. Các cấp Tòa án khi xét xử gặp trường hợp này vẫn xem như Luật sư đã hoàn thành nhiệm vụ cho dù vụ việc chấm dứt do khách hàng không tiếp tục yêu cầu Luật sư thực hiện dịch vụ đó (rút đơn kiện). Ở trường hợp này, theo nhóm tác giả, các Luật sư đã thực hiện đúng hợp đồng, việc khách hàng không tiếp tục yêu cầu là do lỗi của khách hàng.

Nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý

Các quy định về trách nhiệm của khách hàng yêu cầu thực hiện dịch vụ pháp lý, ngoài các nguyên tắc chung của quan hệ dân sự, việc khách hàng phải tuân thủ các cam kết của hợp đồng là đương nhiên để bảo đảm việc giải quyết vụ việc theo yêu cầu đúng pháp luật, đạt kết quả.
Dựa trên kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý cho thấy, để bảo đảm hiệu quả trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng, trước hết các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng và quy định của pháp luật cần được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Đây là vấn đề dễ gây nhầm lẫn trong quan hệ giữa khách hàng với Luật sư dẫn đến hiệu quả vụ việc không được cao, phát sinh tranh chấp. Nếu không làm rõ nội dung này sẽ khó xác định trách nhiệm thuộc về khách hàng hay Luật sư khi đánh giá lỗi và nhất là khi xem xét những thiệt hại cụ thể xảy ra để quy trách nhiệm.

Thanh toán thù lao, chi phí Luật sư Nghĩa vụ thanh toán thù lao kịp thời và đầy đủ của khách hàng gắn với quyền của Luật sư thực hiện vụ việc đó (vụ việc có thù lao). Quy định của pháp luật dân sự và Luật Luật sư nhìn chung cho phép Luật sư được chấm dứt HĐDVPL nếu như khách hàng không thực hiện nghĩa vụ này. Song thực tiễn cho thấy, các Luật sư rất ít khi đơn phương chấm dứt hợp đồng với lý do này, vì trong việc thực hiện hợp đồng còn có những ràng buộc về đạo đức nghề nghiệp cho dù các quy định pháp luật cho phép. Do vậy, không ít Luật sư đưa vào hợp đồng điều khoản hứa thưởng bên cạnh việc tính toán một mức thù lao tối thiểu để bảo đảm theo đuổi HĐDVPL đó. Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau về tính hợp pháp của điều khoản hứa thưởng trong các HĐDVPL, song có thể thấy các bản án, quyết định khi giải quyết tranh chấp đều ghi nhận khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ hứa thưởng khi Luật sư hoàn
thành nghĩa vụ của mình.

Cung cấp kịp thời, thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc

Thông tin, tài liệu chính là “chất liệu” để giải quyết các vụ việc theo yêu cầu của khách hàng. Thực hiện vụ việc thành công, đạt hiệu quả hay không phần lớn phụ thuộc vào nguồn chất liệu này. Đó còn là nguồn chứng cứ theo các quy định của pháp luật tố tụng khi Luật sư tham gia giải quyết các vụ việc tại Tòa án, trọng tài. Các quy định của pháp luật đề cao trách nhiệm của Luật sư trong việc bảo mật thông tin, tài liệu của khách hàng. Do tính chất quan trọng này, việc xem xét trách nhiệm của Luật sư, từ đó đánh giá Luật sư có hoàn thành tối ưu việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng hay không lại phụ thuộc vào chính các nghĩa vụ của khách hàng về nội dung này. Đây không đơn thuần là quy định của pháp luật, mà còn được đề cập trong chính các cam kết của HĐDVPL.

Quyết định giải quyết vụ việc

Vụ việc khách hàng yêu cầu gắn với lợi ích và uy tín của khách hàng. Luật sư với tư cách là người đại diện phải bảo đảm tối ưu các lợi ích này. Trong nhiều trường hợp, lợi ích của khách hàng mâu thuẫn với chính hoạt động nghề Luật sư. Điều này dễ dàng nhận thấy trong các vụ việc Luật sư vừa bảo đảm hoạt động nghề nghiệp, vừa đứng trước các tình huống bất lợi cho khách hàng khi phát sinh tình tiết mới nếu không có những quyết định kịp thời. Đây là vấn đề chưa được dự liệu trong các quy định pháp luật về Luật sư hiện nay.
Như vậy, để các vụ việc khách hàng yêu cầu thực hiện có hiệu quả thiết thực và kịp thời, Luật sư phải đáp ứng các yêu cầu từ phía khách hàng. Việc thiếu hụt chứng cứ sẽ không bảo đảm khách quan, thậm chí gây thiệt hại cho khách hàng. Do đó, khi phát sinh tranh chấp về trách nhiệm của Luật sư, điều cần thiết là phải xem xét các trách nhiệm đối ứng của khách hàng như phân tích ở trên.

Trách nhiệm của Luật sư khi thực hiện vụ việc trong quan hệ với các cơ quan pháp luật, với đối tác của khách hàng
Trong chừng mực nhất định, hiệu quả tối ưu mà Luật sư mang lại khi bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng lại chính ở các quyền và nghĩa vụ phải thực hiện theo quy định của pháp luật đối với vụ việc Luật sư tham gia. Thước đo hiệu quả từ dịch vụ chính là các kết quả đạt được từ việc thực hiện những nhiệm vụ này. Do đó, một HĐDVPL đầy đủ và minh bạch về nguyên tắc phải đáp ứng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với vụ việc phải thực hiện. Qua đó, khách hàng với tư cách là những người không am hiểu nhiều về pháp luật có thể nhanh chóng hiểu được trách nhiệm của Luật sư đến đâu để có những ứng xử phù hợp.

Nhìn chung, hoạt động này gắn với chức năng của Luật sư được quy định trong Luật Luật sư. Cụ thể Điều 4 Luật Luật sư quy định về dịch vụ pháp lý của Luật sư như sau: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác. Đồng nghĩa rằng, khi tham gia thực hiện dịch vụ pháp lý phải áp dụng các quy định có liên quan vụ việc khách hàng yêu cầu để xem xét trách nhiệm của Luật sư đã tận dụng đầy đủ các quyền được pháp luật trao cho, thực hiện các vụ việc của khách hàng một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất.

Cũng theo các quy định này, trong từng vụ việc cụ thể, phải làm rõ tiến trình thực hiện vụ việc của Luật sư bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng cần dựa vào các quy định của pháp luật đối với vụ việc đó. Chẳng hạn, cùng tham gia các hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp, song nếu Luật sư tham gia với tư cách đại diện theo ủy quyền (trong các vụ việc dân sự) có vai trò hoàn toàn khác với Luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo. Do sự khác biệt này, chính Luật sư là người am hiểu pháp luật nhất, cần có những truyền tải đầy đủ vào HĐDVPL để bảo đảm cho các trách nhiệm được rõ ràng. Đó không chỉ đơn thuần dừng lại ở các cam kết của Luật sư đối với khách hàng, mà còn là thước đo để đánh giá trách nhiệm của Luật sư có thực hiện một cách tối ưu các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hay không.

Quy tắc 5 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam quy định: “Luật sư có nghĩa vụ tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo quy định của pháp luật và Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam”. Soi rọi vào các vụ việc cụ thể, có thể thấy quy tắc này chỉ dừng lại ở chuẩn mực đạo đức còn chung chung, không có những ràng buộc cụ thể trong phạm vi quan hệ hợp đồng có ràng buộc trách nhiệm và chịu những hệ quả bất lợi nếu sai phạm.

Những hạn chế qua thực tiễn

Thực tiễn pháp lý cho thấy, đây là lỗ hổng khá lớn trong các quy định của Luật Luật sư thể hiện ngay chính trong quan hệ của Luật sư với các cơ quan tố tụng và với các đối tác của khách hàng. Các quy định của Luật Luật sư không thể hiện rõ trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng. Quy tắc 12 Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam đề cập 04 nguyên tắc cơ bản sau: chủ động, tích cực giải quyết vụ việc của khách hàng và thông báo tiến trình giải quyết vụ việc; bảo quản, giữ gìn tài liệu, hồ sơ mà khách hàng giao cho; thái độ ứng xử phù hợp, tránh làm phát sinh tranh chấp với khách hàng; trong trường hợp đang cùng thực hiện một vụ việc, nếu có sự không thống nhất ý kiến giữa các Luật sư có thể gây bất lợi cho khách hàng thì Luật sư phải thông báo để khách hàng thực hiện quyền lựa chọn. Quy tắc này cũng không thể hiện rõ nét trách nhiệm của Luật sư trong các vụ việc đặc thù.

Ví dụ: Tình trạng các Luật sư nhận bào chữa hoặc bảo vệ cho khách hàng nhưng không có mặt trực tiếp tại phiên tòa xét xử vụ việc, chỉ gửi bản bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng vẫn còn xảy ra. Mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng thường chấp nhận hình thức này, nhưng dưới góc độ nghề nghiệp, chất lượng bào chữa, bảo vệ giảm sút đáng kể khi có những chuyển biến mới tại phiên tòa, do không có mặt trực tiếp nên Luật sư không dự liệu để xử lý, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của khách hàng.

Trong các HĐDVPL,   thường ít thể hiện nội dung này vì nhiều lý do khác nhau. Luật sư cũng có thể chủ động không đưa vào hợp đồng để ràng buộc các trách nhiệm này. Đồng nghĩa rằng, quyền lợi của khách hàng ít nhiều bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi đó, việc áp dụng các quy định nảy sinh không ít vướng mắc, nhất là trong các vụ việc phức tạp, việc xác định các nghĩa vụ Luật sư đã thực hiện không đơn thuần chỉ dựa vào một hoặc một vài hành vi cụ thể mà cả quá trình dài bao hàm sự tận tâm giải quyết công việc của Luật sư đối với vụ việc và kết quả đạt được đó. Theo quan điểm của nhóm tác giả, ở trường hợp này, tuy HĐDVPL có thể không ghi rõ các quyền và nghĩa vụ của Luật sư thực hiện vụ việc, song khi đã lựa chọn và đồng ý tham gia giải quyết vụ việc thì về nguyên tắc, Luật sư phải tham gia đầy đủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định. Khi đó, các yêu cầu được pháp luật đặt ra đối với các đương sự (khách hàng) mới mang lại hiệu quả thiết thực như đúng nghĩa.

Những kiến nghị

Hoàn thiện các quy định về Luật sư là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay, các quy định của pháp luật chuyên ngành đã có nhiều sửa đổi bổ sung và trước các yêu cầu trao quyền hơn nữa cho Luật sư hoạt động nghề nghiệp có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu tư vấn, hỗ trợ khách hàng giải quyết tốt các vụ việc phức tạp.

Trên cơ sở những hạn chế đã nêu, nhóm tác giả kiến nghị những giải pháp khắc phục như sau:

Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm của khách hàng, nhất là trong việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc đầy đủ và chính xác để Luật sư làm tròn trách nhiệm của mình trước pháp luật. Qua đó, các quy định cũng cần sửa đổi đề cập đến quyền quyết định thay khách hàng của Luật sư trong một số trường hợp cụ thể nếu thấy các tình tiết vụ việc bất lợi cho khách hàng, thay vì quy định như hiện nay mọi quyết định liên quan đến vụ việc đều do khách hàng quyết định, gặp những khó khăn trong các tình huống phát sinh, không mang lại những hiệu quả thiết thực trong các vụ việc, tình huống tiêu biểu cần có những quyết định kịp thời đúng đắn.

Thứ hai, các quy định về HĐDVPL cần truyền tải đầy đủ các điều khoản cơ bản, phù hợp với những đặc thù của dạng hợp đồng này để bảo đảm tối ưu các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, tuyệt đối tránh tình trạng thiếu rõ ràng về phạm vi của HĐDVPL, không phát huy được hiệu quả vụ việc Luật sư cần thực hiện, không đáp ứng được quyền lợi tối đa của khách hàng. Trường hợp hợp đồng cố ý loại bỏ các điều khoản này thì phải áp dụng các quy định của pháp luật theo hướng giải thích có lợi cho khách hàng khi giải quyết tranh chấp. Qua đó góp phần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các tổ chức hành nghề Luật sư/Luật sư trong việc thông tin đầy đủ, kịp thời hơn các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm của Luật sư.

Thứ ba, ban hành các án lệ xét xử về trách nhiệm của Luật sư đối với khách hàng. Hiện nay tranh chấp giữa Luật sư với khách hàng trở nên khá phổ biến. Với các tình huống và quy định cho thấy, quan hệ giữa Luật sư và khách hàng chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định khác nhau, nhất là trong các quy định gắn với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khi tham gia thực hiện vụ việc được xác định cụ thể. Khó khăn, vướng mắc này cần được kịp thời khắc phục qua việc ban hành các án lệ, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao khi giao kết HĐDVPL và khi giải quyết tranh chấp.

(1)    Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng Luật sư toàn quốc.

 

Tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.

4. Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/ QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng Luật sư toàn quốc).

5. Bản án số 62/2018/DS-PT ngày 02/11/2018 về tranh chấp Hợp đồng dịch vụ pháp lý của Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng.

6. Bản án số 186/2021/DS-PT ngày 21/10/2021 về tranh chấp Hợp đồng dịch vụ pháp lý và hứa thưởng của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Tiến sĩ, Luật sư LƯƠNG KHẢI ÂN

Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

Tiến sĩ LÊ THỊ THẢO

Trường Đại học Luật, Đại học Huế

Thạc sĩ NGÔ VĂN TĂNG PHƯỚC

Trường Đại học Thái Bình Dương

Vai trò của Đoàn Luật sư TP. Hà Nội trong việc tham gia xây dựng các văn bản pháp luật, trợ giúp pháp lý cho người dân

Nguyễn Hoàng Lâm