Ảnh minh họa.
1. Đặt vấn đề
Trong năm 2022, trên toàn quốc đã xảy ra 7.718 vụ tai nạn lao động (TNLĐ), tăng 18.66% so với năm 2021, khiến 7.923 người bị nạn, tăng 18,99% so với năm 2021. Trong đó, những địa phương có số người chết vì TNLĐ nhiều nhất là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh, Đồng Nai.(1) Những con số nêu trên bao gồm cả khu vực có quan hệ lao động và khu vực NLĐ làm việc không theo hợp đồng lao động. Cụ thể, số vụ TNLĐ chết người là 720 vụ, giảm 29 vụ tương ứng 3,87% so năm 2021. Số người chết vì TNLĐ là 754 người, giảm 32 người. Tuy nhiên, số người bị thương nặng do TNLĐ lại tăng 162 người, lên tới 1.647 người, tăng 10,9% so năm 2021. Đối với khu vực có quan hệ lao động, so năm 2021, số vụ TNLĐ tăng 1.390 vụ, tương đương khoảng 23,98%. Số nạn nhân cũng tăng 1.456 người, tương đương 24,63%.(2) Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhiều người sử dụng lao động chưa chú ý thực hiện quy định của pháp luật về quản lý, kiểm soát nguy cơ, rủi ro; nhiều người lao động (NLĐ) chưa được huấn luyện An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ), thiếu kiến thức, kỹ năng làm việc an toàn, tác phong công nghiệp còn rất hạn chế, chủ quan. Công đoàn cơ sở chưa thực hiện tốt vai trò tư vấn, huấn luyện cho NLĐ thuộc Công đoàn cơ sở. Công tác thông tin, tuyên truyền ATVSLĐ cho khu vực có và không quan hệ lao động đang bị hạn chế nhiều về nguồn lực. Chính quyền cơ sở ở một số nơi cũng chưa thực sự quan tâm, dành nguồn lực cho công tác ATVSLĐ. Luật An toàn Vệ sinh Lao động 2015 là dấu ấn quan trọng cho công tác quản lý nhà nước về an toàn lao động cũng như công tác bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp. Luật An toàn Vệ sinh Lao động 2015 đã tạo khung pháp lý đồng bộ, thống nhất, đảm bảo tính thực thi cao hơn, đồng thời tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành vi của các cơ quan quản lý nhà nước về lao động; của mỗi doanh nghiệp, người sử dụng lao động và người lao động.
2. Trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động và công đoàn cơ sở đối với an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ)
2.1. Khái niệm
An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động (3).
Vệ sinh lao động là giải pháp phòng, chống tác động của yếu tố có hại gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe cho con người trong quá trình lao động (4).
Như vậy, an toàn, vệ sinh lao động là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về các giải pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho NLĐ trực tiếp và những người xung quanh
2.2. Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc (5)
- Bảo đảm nơi làm việc phải đạt yêu cầu về không gian, độ thoáng, bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung, các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại khác được quy định tại các quy chuẩn kỹ thuật liên quan và định kỳ kiểm tra, đo lường các yếu tố đó; bảo đảm có đủ buồng tắm, buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
- Bảo đảm máy, thiết bị, vật tư, chất được sử dụng, vận hành, bảo trì, bảo quản tại nơi làm việc theo quy chuẩn kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động, hoặc đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động đã được công bố, áp dụng và theo nội quy, quy trình bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.
- Trang bị, cung cấp đầy đủ cho người lao động các phương tiện bảo vệ cá nhân khi thực hiện công việc có yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại; trang bị các thiết bị an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc.
- Hằng năm hoặc khi cần thiết, tổ chức kiểm tra, đánh giá các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc để tiến hành các biện pháp về công nghệ, kỹ thuật nhằm loại trừ, giảm thiểu yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc, cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc sức khỏe cho người lao động.
- Định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, vật tư, chất, nhà xưởng, kho tàng.
- Phải có biển cảnh báo, bảng chỉ dẫn bằng tiếng Việt và ngôn ngữ phổ biến của người lao động về an toàn, vệ sinh lao động đối với máy, thiết bị, vật tư và chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc, nơi lưu giữ, bảo quản, sử dụng và đặt ở vị trí dễ đọc, dễ thấy.
- Tuyên truyền, phổ biến hoặc huấn luyện cho người lao động quy định, nội quy, quy trình về an toàn, vệ sinh lao động, biện pháp phòng, chống yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc có liên quan đến công việc, nhiệm vụ được giao.
- Xây dựng, ban hành kế hoạch xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp tại nơi làm việc; tổ chức xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp, lực lượng ứng cứu và báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ hoặc khi xảy ra tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của người sử dụng lao động.
- Tùy thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm, hành vi vi phạm quy định an toàn vệ sinh lao động có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
- Theo quy định tại Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 một số lỗi vi phạm an toàn vệ sinh lao động điển hình và mức xử phạt như sau:
- Vi phạm quy định về các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng – 75.000.000 đồng (6);
- Vi phạm quy định về phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phạt tiền từ 10.000.000 đồng – 40.000.000 đồng (7);
- Vi phạm quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng – 75.000.000 đồng (8);
- Vi phạm quy định về sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng – 75.000.000 đồng (9);
- Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm còn bị buộc thực hiện một số biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc ngừng sử dụng máy, thiết bị, nơi làm việc có nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Buộc trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân đạt tiêu chuẩn về chất lượng…
- Việc vi phạm an toàn vệ sinh lao động còn có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 295 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với mức phạt tù cao nhất lên tới 12 năm.
- Đồng thời ngoài việc bị áp dụng hình phạt tù tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng - 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 - 05 năm.
2.3. Trách nhiệm của người lao động trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc (10)
- Chấp hành quy định, nội quy, quy trình, yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động của người sử dụng lao động hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành liên quan đến công việc, nhiệm vụ được giao.
- Tuân thủ pháp luật và nắm vững kiến thức, kỹ năng về các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc; sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp, các thiết bị an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc trong quá trình thực hiện các công việc, nhiệm vụ được giao.
- Phải tham gia huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động trước khi sử dụng các máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động.
- Ngăn chặn nguy cơ trực tiếp gây mất an toàn, vệ sinh lao động, hành vi vi phạm quy định an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc; báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi biết tai nạn lao động, sự cố hoặc phát hiện nguy cơ xảy ra sự cố, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; chủ động tham gia ứng cứu, khắc phục sự cố, tai nạn lao động theo phương án xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp hoặc khi có lệnh của người sử dụng lao động hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.4. Trách nhiệm của công đoàn cơ sở trong công tác an toàn, vệ sinh lao động (11)
- Tham gia với người sử dụng lao động xây dựng và giám sát việc thực hiện kế hoạch, quy định, nội quy, quy trình, biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động.
- Đại diện cho tập thể người lao động thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện điều khoản về an toàn, vệ sinh lao động trong thỏa ước lao động tập thể; có trách nhiệm giúp đỡ người lao động khiếu nại, khởi kiện khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng bị xâm phạm.
- Đối thoại với người sử dụng lao động để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động về an toàn, vệ sinh lao động.
- Tham gia, phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức kiểm tra công tác an toàn, vệ sinh lao động; giám sát và yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện đúng các quy định về an toàn, vệ sinh lao động; tham gia, phối hợp với người sử dụng lao động điều tra tai nạn lao động và giám sát việc giải quyết chế độ, đào tạo nghề và bố trí công việc cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Kiến nghị với người sử dụng lao động, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, khắc phục hậu quả sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động, tai nạn lao động và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
- Tuyên truyền, vận động người lao động, người sử dụng lao động thực hiện tốt các quy định của pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy trình, biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc. Phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức tập huấn, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động cho cán bộ công đoàn và người lao động.
- Yêu cầu người có trách nhiệm thực hiện ngay biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, kể cả trường hợp phải tạm ngừng hoạt động nếu cần thiết khi phát hiện nơi làm việc có nguy cơ gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người lao động.
- Tham gia Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật này; tham gia, phối hợp với người sử dụng lao động để ứng cứu, khắc phục hậu quả sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động, tai nạn lao động; trường hợp người sử dụng lao động không thực hiện nghĩa vụ khai báo theo quy định tại Điều 34 của Luật này thì công đoàn cơ sở có trách nhiệm thông báo ngay với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 của Luật này để tiến hành điều tra.
- Thành phần Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở gồm có người sử dụng lao động hoặc người đại diện được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản làm Trưởng đoàn và các thành viên là đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể người lao động khi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, người làm công tác an toàn lao động, người làm công tác y tế và một số thành viên khác. (12)
- Phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức các phong trào thi đua, phong trào quần chúng làm công tác an toàn, vệ sinh lao động và xây dựng văn hóa an toàn lao động tại nơi làm việc; quản lý, hướng dẫn hoạt động của mạng lưới an toàn, vệ sinh viên.
- Những cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa thành lập công đoàn cơ sở thì công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện quyền, trách nhiệm quy định tại Điều này khi được người lao động ở đó yêu cầu.
3. Thực trạng thi hành pháp luật An toàn vệ sinh lao động và kiến nghị hoàn thiện
3.1 Thực trạng thi hành pháp luật An toàn vệ sinh lao động
- Hàng năm, nhiều Doanh nghiệp không xây dựng kế hoạch ATVSLĐ, kế hoạch đánh giá nguy cơ rủi ro về ATVSLĐ tại Doanh nghiệp, kế hoạch tự kiểm tra về ATVSLĐ; không tiến hành đo, kiểm tra quan trắc môi trường lao động; không lập hồ sơ an toàn, vệ sinh lao động không tổ chức huấn luyện về ATVSLĐ cho NLĐ; không trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân cho NLĐ;; không tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho NLĐ, không ký hợp đồng khám phát hiện bệnh nghề nghiệp cho NLĐ; không thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật cho NLĐ theo đúng quy định.
- Ngoài ra vẫn có trường hợp NLĐ được Doanh nghiệp trang bị phương tiện bảo hộ lao động cá nhân đầy đủ nhưng không sử dụng thường xuyên do thói quen; NLĐ không tuân thủ các nguyên tắc quy trình an toàn lao động.
- Một số Doanh nghiệp còn lơ là trong việc đảm bảo thực hiện ATVSLĐ, nhiều Doanh nghiệp chỉ làm hồ sơ theo cách đối phó hoặc mua hồ sơ chứng nhận đã tham gia các lớp huấn luyện ATVSLĐ trong khi thực tế NLĐ trong Doanh nghiệp chưa được tập huấn về ATVSLĐ.
- Doanh nghiệp chưa thực hiện nghiêm túc công tác thống kê, báo cáo tình hình TNLĐ, BNN và ATVSLĐ theo quy định.
- Một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc chăm lo, cải thiện điều kiện làm việc cho NLĐ; không bố trí hoặc bố trí đội ngũ làm công tác ATVSLĐ chưa đúng quy định; hoạt động của mạng lưới an toàn vệ sinh viên (ATVSV) chưa thực sự hiệu quả, chế độ phụ cấp trách nhiệm cho ATVSV chưa được quan tâm; nhiều chế độ chính sách của NLĐ trong lĩnh vực ATVSLĐ chưa được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3.2 Phương hướng khắc phục những hạn chế tồn tại
- Người lao động cần tuân thủ chấp hành nghiêm các nội quy, quy trình tại nơi làm việc nhằm nâng cao nhận thức về ATVSLĐ và thực hiện có hiệu quả Luật ATVSLĐ theo các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Người sử dụng lao động cần cải thiện điều kiện làm việc và chăm sóc sức khoẻ NLĐ tăng cường hoạt động truyền thông về ATVSLĐ, tăng cường công tác tự kiểm tra ATVSLĐ tại Doanh nghiệp đặc biệt đối với các ngành, nghề, lĩnh vực có nguy cơ rủi ro cao về TNLĐ, BNN; khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác ATVSLĐ;
- Người sử dụng lao động cần đẩy mạnh việc thành lập, kiện toàn, xây dựng mạng lưới an toàn, vệ sinh viên (ATVSV) theo hướng tăng cường về chất lượng, hoạt động thực sự hiệu quả để bảo đảm an toàn, tính mạng của NLĐ trong các cơ sở sản xuất;
- Người sử dụng lao động cần tạo điều kiện cho NLĐ tham gia các lớp tập huấn về Luật ATVSLĐ để hiểu biết kiến thức về các yếu tố nguy hiểm, có hại trong quá trình lao động để xây dựng các biện pháp phòng tránh có hiệu quả, qua đó nâng cao vai trò của đội ngũ ATVSV trong công tác phòng, chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...;
- Người sử sụng lao động, NLĐ cần nâng cao nhận thức và sự tuân thủ pháp luật về ATVSLĐ đồng thời, đẩy mạnh việc tham gia các hoạt động phòng ngừa TNLĐ, BNN trong doanh nghiệp. - Công đoàn cơ sở cần tăng cường phối hợp kiểm tra việc chấp hành Luật ATVSLĐ của Doanh nghiệp góp phần giảm thiểu TNLĐ, BNN. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về ATVSLĐ đối với người lao động;
- Công đoàn cơ sở cần chú trọng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy ATVSV tại cơ sở; duy trì và phát triển mạng lưới ATVSV, xây dựng góc tuyên truyền về ATVSLĐ tại Doanh nghiệp;
- Công đoàn cơ sở cần làm tốt công tác đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, NLĐ cần tham gia phong trào ATVSLĐ, góp phần xây dựng văn hóa an toàn tại nơi làm việc;
- Công đoàn cấp trên cần triển khai, hướng dẫn kịp thời các văn bản pháp luật, chế độ, chính sách mới ban hành có liên quan tới công tác ATVSLĐ, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật An toàn vệ sinh lao động
- Danh mục nghề công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm hiện nay còn được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, cần tích hợp trong một văn bản thống nhất để tiện cho người sử dụng lao động và người lao động tra cứu, áp dụng.Ví dụ Bộ Luật Lao động có quy định người lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm được nghỉ phép mỗi năm 16 ngày; (13)
- Thông tư 11/2020/TT-BLĐTBXH có hiệu lực từ ngày 01/3/2021, so với quy định trước đây, danh mục nghề có yếu tố nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm được áp dụng theo Thông tư này đã được bổ sung thêm số lượng đáng kể các nghề, công việc nhưng vẫn được chia theo từng lĩnh vực cụ thể và phân loại theo điều kiện lao động loại IV, V, VI. Tuy nhiên, Thông tư này chỉ quy định chung tất cả các nghề, công việc có yếu tố nặng nhọc độc hại nguy hiểm mà không chỉ rõ công việc nặng nhọc độc hại nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc độc hại nguy hiểm thì tương ứng với điều kiện lao động nào;
- Các quy định về điều kiện để người lao động được hưởng chế độ bồi dưỡng độc hại bằng hiện vật còn chưa hợp lý (14), mức bồi dưỡng thấp trong khi giá cả thị trường tăng cao gây khó khăn cho doanh nghiệp khi lựa chọn mua hiện vật bồi dưỡng cho người lao động (chủ yếu là mua đường, sữa), trong khi một bộ phận công nhân lao động không có nhu cầu sử dụng hoặc không sử dụng được hiện vật bồi dưỡng như đường, sữa... nhưng doanh nghiệp vẫn buộc người lao động phải nhận vì nếu trả bằng tiền sẽ vi phạm quy định của pháp luật; (15)
- Cần xem xét sửa đổi Điều 56 Luật An toàn vệ sinh lao động theo hướng mở rộng nội dung chi của Quỹ như chi điều dưỡng, phục hồi chức năng cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và suy giảm sức khỏe; chi hỗ trợ khám sức khỏe định kỳ; chi đầu tư các thiết chế phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và cải thiện điều kiện lao động; huấn luyện và nghiên cứu các giải pháp khoa học kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động..., do phạm vi chi của Quỹ theo quy định của luật hiện đang còn hẹp và mức chi thấp;
- Hiện nay có một số Doanh nghiệp đặc biệt là Doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường tự mua các loại máy móc cũ (máy cẩu, xe nâng) về tự sửa chữa, lắp ráp để sử dụng dễ gây nguy hiểm, cần quy định cụ thể việc quản lý kiểm định với loại thiết bị này nhằm hạn chế TNLĐ;
- Bộ Y Tế cần quy định danh mục cụ thể khi khám sức khỏe cho người lao động để tránh việc Doanh nghiệp lách luật tổ chức khám sức khỏe cho người lao động sơ sài không đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Việc quan trắc môi trường cần quy định cụ thể địa điểm quan trắc, thời điểm quan trắc để đảm bảo tính khách quan, chính xác về môi trường làm việc của người lao động;
- Mức bồi thường trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động suy giảm từ 81% sức lao động trở lên hoặc tử vong tương đương 30 tháng tiền lương như hiện nay là chưa phù hợp. Để thể hiện trách nhiệm của Doanh nghiệp với người lao động bị tai nạn và gia đình họ, cần quy định ở mức cao hơn, từ 50 tháng tiền lương trở lên hoặc theo thỏa thuận tự nguyện của người sử dụng lao động với người lao động;
- Việc quy định về huấn luyện an toàn lao động tại Doanh nghiệp như hiện nay phù hợp với loại hình Doanh nghiệp sản xuất trực tiếp nhưng đối với các loại hình Doanh nghiệp dịch vụ như: Vận tải, du lịch, Logictis, thương mại, giáo dục… cần có quy định riêng cho phù hợp vì mức độ nguy hiểm ở mỗi ngành nghề là khác nhau;
- Luật An toàn Vệ sinh Lao động 2015 không quy định về mức sàn phụ cấp cho an toàn vệ sinh viên (ATVSV) dẫn tới nhiều Doanh nghiệp chỉ thành lập mạng lưới an toàn vệ sinh viên để đối phó với các cơ quan quản lý khi thanh tra, kiểm tra mà không quan tâm, tạo điều kiện cho lực lượng nay hoạt động. Hiện nay không có quy định về phụ cấp này nên người sử dụng lao động không phụ cấp hoặc phụ cấp rất ít không đủ sức thu hút NLĐ tham gia công tác ATVSV trong Doanh nghiệp. Đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung điểm b Khoản 5 Điều 74 Luật ATVSLĐ theo hướng quy định rõ về phụ cấp cho an toàn vệ sinh viên không thấp hơn một mức tối thiểu nhất định;
- Kiến nghị, Tổng LĐLĐ Việt Nam phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế cần sớm có nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí có quy định rõ ràng hàm lượng dinh dưỡng, định lượng, giá trị quy đổi calo nhằm đảm bảo chất lượng cho bữa ăn ca đảm bảo sức khỏe cho NLĐ, hạn chế rủi ro trong quá trình lao động;
- Luật An toàn Vệ sinh Lao động 2015 hiện tại đã quy định cụ thể các trường hợp được xác định là tai nạn lao động hoặc tai nạn được hưởng chế độ như tai nạn lao động đó là: Tai nạn tại nơi làm việc xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc; ngoài nơi làm việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động và trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và quãng đường hợp lý. Tuy nhiên, thực tế đã xảy ra trường hợp người lao động bị chết đột ngột (đột tử) trong khuôn viên của doanh nghiệp trước khi đến giờ làm việc, hoặc sau khi kết thúc công việc, cũng có trường hợp người lao động bị ngất khi đang làm việc được đưa đi bệnh viện cấp cứu sau thời gian (từ 01 đến 02 tháng) mới tử vong... thì chưa có cơ sở để xác định chế độ, chính sách với người lao động trong trường hợp này.
An toàn và sức khỏe nghề nghiệp (ATSKNN) giờ đây không còn được coi là một tùy chọn bổ sung. Tất cả 186 Quốc gia thành viên của ILO hiện có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và tạo dựng một môi trường làm việc an toàn và lành mạnh như một nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc, dù họ có phê chuẩn các công ước của ILO liên quan đến ATSKNN hay không. “Cần thiết phải đưa môi trường làm việc an toàn và lành mạnh trở thành quyền cơ bản của NLĐ” là nhấn mạnh của bà Chihoko Asada-Miyakawa, Giám đốc khu vực Châu Á và Thái Bình Dương của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Do đó, việc sửa đổi Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 là hết sức cần thiết.
1. Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB & XH) 2. Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB & XH) 3. Khoản 2 Điều 3 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 4. Khoản 3 Điều 3 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 5. Khoản 3 Điều 3 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 6. Điều 21 Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 7. Điều 22 Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 8. Điều 23 Nghị định 12/2022/NĐ-CP ngày 17/01/2022 10. Điều 16 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 11. Điều 10 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 12. Khoản 1 Điều 35 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 13. Điểm c Điều 113 Bộ Luật Lao động 2019 14. Điều 24 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 15. Khoản 7 Điều 12 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015
|
ThS. Luật sư ĐÀO NGUYỄN HƯƠNG DUYÊN
Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai
Một số khó khăn, vướng mắc về xóa án tích theo quy định của pháp luật hình sự