SÁNG TRƯA MÙNG 2
1. Ngày Tết theo truyền thống của một số dân tộc ở Việt Nam
(LSVN) - Ngày Tết được coi là ngày đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với người dân Việt Nam nên mỗi đồng bào các dân tộc lại có những phong tục rất độc đáo để chào đón năm mới, đón Tết cổ truyền. Các phong tục đều có những nét đặc trưng riêng tạo nên một bức tranh ngày Tết đa sắc màu và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
![]()
Tết của dân tộc Kinh
Người Kinh chiếm 85,3% dân số của cả nước, sinh sống và làm việc trải dài khắp các tỉnh từ miền Bắc ra đến miền Nam. Tết của người Kinh được xem là nét đẹp văn hóa đặc trưng của cả dân tộc Việt Nam, có nhiều phong tục truyền thống mang ý nghĩa sâu sắc nhằm mong một năm mới bình an, thịnh vượng và gặp nhiều may mắn.
Ngày 23 tháng Chạp hằng năm, nhà nhà sẽ dọn dẹp nhà bếp sạch sẽ, mua cá vàng về cúng, tiễn ông Công và ông Táo về trời để báo cáo mọi việc trong nhà với Ngọc Hoàng.
Bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong những ngày Tết, các gia đình sẽ gói bánh sớm từ ngày 27, 28. Ngoài để thắp hương cúng ông bà và tổ tiên, món bánh này còn được xem là món quà ý nghĩa để biếu cho họ hàng và bạn bè trong dịp Tết.
Trước Tết một vài ngày, các gia đình đều vệ sinh và dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp lại đồ đạc nhằm xóa bỏ những điều không tốt của năm cũ, đón chào một năm mới gặp nhiều tài lộc và may mắn. Nhiều nhà còn trang hoàng lại vẻ đẹp của ngôi nhà bằng những chậu quất hay hoa mai, hoa đào, thêm một vài bao lì xì như báo hiệu khoảnh khắc năm mới đang đến gần.
Thăm mộ tổ tiên là phong tục thể hiện đạo hiếu, sự kính trọng đối với bậc tổ tiên. Mọi người sẽ cùng nhau đi thăm viếng và dọn dẹp lại nơi an nghỉ của ông bà tổ tiên, đấng sinh thành, những người đã khuất.
Vào chiều 30 Tết, các gia đình sẽ làm cơm thắp hương mời thần linh và gia tiên về ăn Tết cùng gia đình. Lễ cúng giao thừa sẽ diễn ra vào thời điểm cuối cùng của năm, thường được thực hiện ngoài trời với ý nghĩa gạt bỏ những điều không may mắn của năm cũ, đón chào những điều tốt đẹp của năm mới.
Người có tướng phú quý như hợp tuổi, gia đình hạnh phúc, làm ăn phát đạt,… sẽ được gia chủ mời xông đất sau thời điểm giao thừa.
Tết là thời điểm mọi người trao nhau những lời chúc tốt lành, Vào mùng 1, con cháu sẽ đến chúc thọ và mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Các cháu bé được người lớn mừng tuổi để lấy may mắn cùng những lời chúc học hành giỏi, hay ăn chóng lớn,…
Đi chùa đầu năm để cầu xin một năm mới may mắn, bình an là một nét đẹp văn hóa tâm linh.
Tết của dân tộc Thái
Người Thái có khoảng hơn 1 triệu người, thường phân bố ở các tỉnh Lai Châu, Nghệ An, Hòa Bình,… Nói về nét độc đáo trong phong tục đón Tết của các dân tộc miền núi thì không thể bỏ qua những phong tục trong ngày Tết của dân tộc Thái.
Vào dịp Tết, mâm cơm của mỗi gia đình phải có các món ăn như cơm mới, cơm đồ xôi, cơm cốm, cá chua, thịt hươu, măng khô, nai khô,… Ngoài ra, những chiếc bánh chưng họ làm cũng rất đặc biệt, được chia thành 2 loại trắng và đen, được cho thêm một ít vừng xay nhuyễn để mùi vị của bánh được thơm ngon hơn.
Đồng bào Thái thường cúng tổ tiên từ ngày 25 tháng Chạp đến mùng 5 tháng Giêng.
Tết của người Thái không thể thiếu phong tục gọi hồn. Phong tục này diễn ra vào tối ngày 29 và 30, mỗi gia đình đều thịt 2 con gà, 1 con để cúng tổ tiên và 1 con để gọi hồn những người trong nhà. Thầy cúng sẽ lấy của mỗi người trong gia đình 1 chiếc áo rồi bó lại một đầu với nhau vắt lên vai, tay cầm một cây củi đang cháy đem ra đầu làng gọi hồn, sau đó lại gọi một lần nữa ở chân cầu thang. Cuối cùng, thầy cúng buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên nhằm mục đích trừ tà, sợi chỉ đó phải đợi tự đứt, nếu tự ý dựt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm đau.
Vào đêm giao thừa, đồng bào Thái còn có tục “Pông Chay”, nghĩa là mọi người sẽ không ngủ mà quây quần bên bếp lửa, cùng nhau ăn uống và trò chuyện. Trong nhà đèn luôn thắp sáng, nhang không được tàn. Đúng thời khắc giao thừa, đặt đồ cúng tại bàn thờ ma nhà, gia chủ khăn mũ chỉnh tề, kính cẩn đọc bài cúng “Chào đón tổ tiên xuống tề tựu”.
Cũng như dân tộc Kinh, để năm mới được may mắn và suôn sẻ, người Thái kiêng cãi nhau vào mùng 1, không nói to, không quét nhà,… Theo phong tục của ông cha để lại, họ hay đi ra suối lấy nước vào ngày mùng 1 để tất cả mọi người gội đầu, gột trôi đi những xui xẻo, không may mắn của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới.
Tết của dân tộc H’Mông
Một điều đặc biệt là Tết của dân tộc H’Mông có hệ lịch riêng, họ ăn Tết trong 1 tháng bắt đầu từ ngày 30/11 âm lịch. Tuy nhiên, hiện nay, đa số đồng bào H’Mông đã ăn Tết cổ truyền như người Kinh, trừ một phần nhỏ người Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì theo hệ lịch của họ.
Trước Tết, họ sẽ sửa sang và thay mới bàn thờ, làm bánh dày. Người H’Mông thờ 2 bếp chính, thắp hương liên tục trong 3 ngày để luôn giữ được ngọn lửa, giúp xua đuổi thú dữ và tà ma. Trong những ngày Tết cổ truyền, họ luôn thờ ma nhà và những vật dụng giúp họ sinh sống, làm ăn và phát triển.
Vào đêm 30, mỗi nhà sẽ làm lễ cúng ma nhà bằng một con lợn sống và một con gà trống tơ sống, họ sẽ đem gà và lợn đi giết thịt khi cúng xong, sau đó lại cúng bằng một mâm thịt chín. Xong xuôi hết mới được ăn và uống rượu đến lúc nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên. Đối với người dân tộc H’Mông, tiếng gà gáy sáng sớm đầu tiên của mùng 1 là thời khắc đánh dấu một năm mới bắt đầu.
Để chuẩn bị cho lễ Sầu su được tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng 12 âm lịch, thanh niên trai tráng được cử đi chặt cây to cao mang về dựng ở cuối làng, đan 2 sợi dây dài trang trí vòng tròn trên dây.
Đây cũng là dịp để các nam thanh nữ tú trong làng có cơ hội tìm hiểu nhau, họ sẽ trưng diện những bộ đồ mới và trang sức đẹp nhất, tổ chức thành từng tốp chơi các trò chơi ném pao, chàng trai sẽ ném quả pao đến hướng cô gái mà mình thích, nếu cô gái đó cũng thích thì bắt lấy quả pao, các cô gái cũng làm như vậy. Trò chơi này diễn ra trong 10 ngày liên tiếp, từ đó mà nhiều đôi trai gái đã nên duyên vợ chồng trong dịp Tết cổ truyền này.
Lễ hội Sải Sán hay Gầu Tào được diễn ra vào ngày mùng 2 của năm mới với ý nghĩa tạ ơn tổ tiên về một mùa màng tươi tốt, cầu cho con cháu đầy đàn… Đây là lễ hội lớn nhất và không thể thiếu trong văn hóa đặc trưng của người H’Mông.
Người H’Mông rất mến khách, họ quan niệm rằng nếu có khách lạ đến chơi vào dịp Tết thì cả năm đó họ sẽ gặp nhiều may mắn nên đón tiếp khách rất chu đáo, mời họ ăn và uống rượu, ngủ lại nhà. Dân tộc H’Mông còn mừng tuổi cho khách 2 chiếc bánh dày họ làm ra trước khi khách ra về.
Tết của dân tộc Mường
Dân tộc Mường ăn Tết vào cuối tháng Chạp của năm cũ và đầu tháng Giêng của năm mới. Lịch Mường xưa có cách tính hơi khác so với người Kinh, tính theo tuần trăng, tính “ngày lui, tháng tới”.
Vào những ngày cuối năm, người Mường sẽ bắt đầu sửa soạn để đón Tết trịnh trọng như cọ các đồ vật và nhà cửa, đánh bóng các đồ đồng trên bàn thờ, nấu bánh,… Việc tắm rửa vào cuối năm không chỉ để cho cơ thể sạch sẽ mà còn là sự tẩy uế cần thiết trước khi đón năm mới,
Giáp Tết, họ sẽ mời thầy cúng tới để cầu cho linh hồn những người đã khuất được siêu sinh tịnh độ. Ngoài lễ cúng còn lễ họp vía vì theo họ, cần phải có đủ vía vào dịp cuối năm mới có đủ vía để khỏe mạnh trong mấy ngày Tết.
Trước lối ra vào của từng nhà, họ trồng những thân cây sậy gọi là cây nêu nhằm trấn trị ma quỷ bảo vệ nhà cửa và con người, bước sang năm mới an lành.
Vài ngày trước khi đến Tết, các gia đình sẽ giết một con vật lớn để cúng tổ tiên. Những nhà giàu có thường làm 7 thứ bánh (bánh giò, bánh giáo, chè lam, bánh uôi, bánh gai, bánh chay, bánh chưng). Những món bánh này được gói lá và luộc trong nồi lớn nhiều giờ đồng hồ. Khi ăn bánh giáo, họ thường ăn kèm với vừng, muối, mật tùy ý thích.
Chiều ngày 30 tháng Chạp, tiếng trống và cồng lớn vang động ở nhà quan Lang, báo cho người dân biết một năm nữa sắp hết. Sau khi nghe thấy tiếng trống, mọi người nhanh chóng sửa soạn đến tập trung tại nhà quan Lang. Bánh luộc xong được bóc cùng những lễ vật được đặt la liệt trên bàn thờ và bắt đầu hành lễ. Sau khi hành lễ xong, thầy cúng dùng 2 miếng tre xin âm dương, nếu có dấu báo tổ tiên đã về hưởng đồ cúng, mọi người sì sụp lễ, pháo nổ, sau đó ai về nhà người nấy.
Song song với ngày Tết, dân tộc Mường có một lễ rất ý nghĩa nữa đó là lễ hạ điền. Các gia đình mang theo cày xuống ruộng để cày luống đầu tiên trong năm mới và điều đó có nghĩa là mùa màng sẽ được tốt đẹp, sức khỏe con người được an khang và thịnh vượng,
Tết của dân tộc Tày
Dân tộc Tày rất xem trọng ngày Tết cổ truyền, bắt đầu từ những ngày 25-26 tháng Chạp, không khí rộn ràng đã tràn ngập khắp mọi nẻo đường. Các gia đình nô nức chuẩn bị nguyên liệu để làm các loại bánh, dọn dẹp nhà cửa, vệ sinh bản làng cho phong quang sạch sẽ.
Vào các ngày 27-28, họ bắt đầu thịt lợn để phục vụ ngày Tết. Đến ngày 29, mọi người bắt đầu trang trí nhà cửa, cắm hoa, dán giấy quanh bàn thờ gia tiên, tranh thủ gói bánh chưng vào lúc chiều tối.
Sang ngày 30, người Tày bắt đầu nấu bánh chưng, dọn dẹp bàn thờ, thay tro mới cho lọ hương bằng bông lúa nếp được sàng sảy kỹ càng, việc này thường để đàn ông làm. Dân tộc Tày cũng cắm cây nêu để trừ tà. Đến chiều tối, các gia đình bắt đầu làm cơm cúng tổ tiên, dâng lễ thắp hương, mời thổ thần về ăn Tết cùng. Sau khi hết tuần hương, các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau ăn uống, trò chuyện vui vẻ.
Sang ngày mùng 1, vào thời điểm 3h sáng trở đi, người Tày có phong tục lấy nước mới. Theo họ, nước đầu năm rất sạch, nhất là nước suối, nước nguồn, nước sông, ai lấy trước sẽ được nước sạch hơn. Chính vì vậy, các thanh niên trong gia đình thi nhau chạy nhanh để lấy nước mới về nhà.
Tết của dân tộc Cơ Tu
Đầu năm mới là thời điểm công việc nương rẫy đã xong, ngô thóc khô được cất vào trong kho, những người dân Cơ Tu xa xứ đang chuẩn bị về nhà để đón Tết cùng gia đình.
Họ bắt đầu đón Tết bằng việc ủ rượu cần, rượu cần ủ càng lâu vị càng nồng đượm, được nước và thơm ngon. Không những thế, dân tộc Cơ Tu còn giã gạo, hái lá đót để gói bánh cuốt, họ dùng lá chuối rừng gói bánh hay dùng thay đĩa, bát khi chia phần thức ăn. Người Cơ Tu cũng gói bánh tét và bánh chưng, vẻ ngoài của bánh nhìn không được sắc sảo nhưng vị bánh khá ngon.
Khác với các dân tộc ở Tây Nguyên uống rượu cần tập thể khi bỏ nhiều cần một lúc vào 1 ché rượu thì họ chỉ cắm một cái cần duy nhất vào ché rượu để hút rượu vào các vỏ bầu khô, ống nứa, ấm,… rồi rót ra bát để mời khách. Khi khách đến nhà sẽ được chủ nhà mời loại rượu đậm, nhạt tùy thuộc vào mức độ thân thiết.
Trước Tết tầm 1 tuần, đồng bào thường đánh cá tập thể trên các con sông lớn, phụ nữ và trẻ em xúc cá bằng vợt ở những con suối nhỏ. Cá thường được nướng, sau đó xông khô rồi bỏ vào ống nứa trên giàn bếp, chế biến như thịt khô.
Vào đêm giao thừa, mọi người nấu cơm hoặc thịt gà, đồ xôi,… đưa lên đình để già làng, đại diện gia đình cúng xin thần linh ban cho một năm mới mùa màng tươi tốt, khỏe mạnh,… Kỹ tính trong các dịp lễ hội khác là thế nhưng trong dịp Tết, người Cơ Tu lại không kiêng kị gì. Khi cúng xong, đồng bào quây quần bên nhau, cùng nâng rượu chúc phúc năm mới. Họ ôn lại những cái khổ cực của ngày hôm qua, ca ngợi cuộc sống ấm no, đầy đủ của ngày hôm nay để giáo dục con cháu.
Bắt đầu từ mùng 2, họ mới đi thăm từng nhà. Người dân tộc Cơ Tu có lệ đi thăm nhà chị em gái hoặc con gái đã đi lấy chồng lâu ngày chưa gặp chứ không có tục con cái đã có vợ chồng về thăm cha mẹ. Nhưng ngày nay, con gái đã lấy chồng ngày Tết cũng về thăm cha mẹ, mang theo thịt heo làm quà, không có nhiều thì một miếng để lấy tình.
Người Cơ Tu không bao giờ thiếu lệ cúng một ít muối trong các lễ phẩm ngày Tết, việc này nhằm nhắc nhở đồng bào một thời gian khó, xem hạt muối như máu trong người.
Có thể nói, ngày Tết là dịp để lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp, đậm tính nhân văn của các dân tộc và mỗi dân tộc trên đất nước ta lại là một mảnh ghép tạo nên sự đa dạng trong phong tục ngày Tết cổ truyền. Hy vọng những chia sẻ sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn cụ thể hơn về thói quen cũng như các công đoạn chuẩn bị chào đón năm mới của các anh em dân tộc trên đất nước Việt Nam.
ĐỖ QUÝ
Một số vấn đề về phiên hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt
2. Nhà tưởng niệm Bác Hồ trên mảnh đất ở thượng nguồn Sông Măng
(LSVN) - Ngày 03/9/1969 ở khu rừng thượng nguồn sông Măng thuộc vùng Đông Nam bộ trong căn hầm chữ A chúng tôi qua Đài Phát thanh Giải phóng biết được tin Bác Hồ của chúng ta đã mất. Ngay tối hôm đó đơn vị lại phải hứng chịu ba trận bom B52 rải thảm trúng khu vực Binh trạm cứ cách quang hai giờ. Đơn vị người chết, người bị thương khá nhiều. Nhưng không bằng số thương vong của các đơn vị tân binh ở miền Bắc chi viện đang trú chân tại các điểm của Binh trạm, phần lớn số chiến sĩ tân binh này sức khỏe giảm vì đã đi bộ khá dài từ 9 đến 10 tháng để vào chiến trường.
Có thể nói toàn đơn vị trạm giao liên trùm một không khí khốc liệt. Như dòng nước chảy, hoạt động của Binh trạm đầu cầu giữa B3 và B2 này (thuộc phòng Quân lực Bộ Tham mưu Miền - đơn vị thời chiến) không thể ngưng trệ, duy trì các đơn vị thay nhau ở lại trạm từ ba đến năm ngày thì nay không được dừng lại nữa, hoặc đã ở lại thì phải củng cố cộng sự vững chắc, yêu cầu lúc đó buộc những đơn vị bám trụ phải đào hầm chữ A cũng như hạn chế tối đa việc phát lộ như phơi phóng dùng bếp hoàng cầm không có khói bốc cao, thay lá ngụy trang ở những nơi trống trải hàng ngày. Mới sáng máy bay trinh sát L19 và máy bay trực thăng địch đã bay sát ngọn cây ngó nghiêng hòng phát hiện những điểm căn cứ của ta để chỉ điểm thả bom.
Binh trạm trưởng Lê Văn Tấn, chính trị viên Nguyễn Văn Nhương và binh trạm phó Lê Văn Hồng trong những ngày nay như ngồi trên đống lửa, phần phải lo tổ chức an toàn cho hàng ngàn con người, chăm sóc bệnh tật cho hàng trăm chiến sĩ mới vào chiến trường ngoài ra không kể việc đưa đón các đoàn dân chính ra vào hậu phương. Để đảm bảo an toàn cho các đơn vị nhưng phải lo chu đáo cho các chiến sĩ trong và ngoài binh trạm có nơi thờ cúng tiễn đưa bác Hồ về cõi vĩnh hằng. Lãnh đạo đơn vị xác định đây là một dịp để giáo dục lòng yêu nước, sự hy sinh lòng tôn kính theo gương Bác cho các chiến sĩ trước khi ra trận.
Ban chỉ huy trạm đã có sáng kiến xây dựng một nhà tưởng niệm Bác khá độc đáo trong rừng sâu là xây cất căn nhà trong lòng đất rộng chừng hơn 20m2, sâu gần 2m trên lợp mái trung quân, mái lợp cách mặt đất nửa mét. Bên trong nhà tưởng niệm có đóng một bệ thờ ghép rất khéo bằng các cây rừng và treo trang trọng hình Bác Hồ có vành tang đen đính ở góc bên trái do các họa sĩ ở đơn vị vẽ. Chính giữa bệ thờ trên hình Bác có băng rồn với hàng chữ “vô cùng thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh". Để thuận tiện cho việc di chuyển khi lên xuống nhà tưởng niệm của hàng ngàn con người đơn vị bố trí bốn góc xung quanh khu vực này có những đoạn hào sâu được che chắn bằng cây rừng hay những khu hầm chữ A để phòng bom địch thả trúng bất ngờ.
Binh trạm đã tổ chức nhiều tuần cho các chiến sĩ trên đường vào chiến trường B2 có dịp được viếng tiễn đưa Bác Hồ vào những ngày đáng ghi nhớ này. Mỗi người khi vào nhà tưởng niệm đều được phát một băng tang đen nhỏ gắn vào viền áo quân phục, không khí nhà tưởng niệm rất trang nghiêm, mỗi chiến sĩ đến viếng Bác đều im lặng trật tự theo hướng dẫn của trực ban đơn vị. Chúng tôi rất xúc động khi hình ảnh Bác trong giờ phút linh thiêng này, do thời gian mỗi người chỉ được vái lạy Bác ba vái, nhiều chiến sĩ nấn na đứng chậm như không muốn rời Bác vào lúc này, không ai nói với ai nhưng nhìn ánh mắt của mỗi chiến sĩ đều rưng lệ họ đến để tiễn đưa người cha già thân yêu của mình. Trong số hàng ngàn chiến sĩ có dịp cúi lạy Bác, ở bàn thờ do binh trạm lên khi người ra đi lúc đó phần lớn họ đã được bổ sung trực tiếp về các đơn vị chiến đấu, trong lòng họ dều tâm niệm lời dạy của Bác quyết tâm chiến đấu, công tác để ở nơi xa xôi Bác Hồ vẫn vui lòng, vì những chiến công của họ.
Nhà tưởng niệm Bác trong rừng sâu trên thượng nguồn Sông Măng sau 100 ngày Bác mất đơn vị chúng tôi dùng nơi tôn nghiêm này làm nơi kết nạp các chiến sĩ vào Đảng và Đoàn thanh niên Cộng sản của đơn vị và các đơn vị chi viện cho chiến trường B2 (Nam bộ).
VŨ ĐÔNG TRIỀU
Hà Nội: Học sinh nghỉ Tết Nguyên đán 2022 từ 29/01/2022
3. Quy định mới về độ tuổi cán bộ được quy hoạch
(LSVN) – Cán bộ được quy hoạch nhiệm kỳ kế tiếp phải đủ tuổi công tác 2 nhiệm kỳ trở lên, ít nhất phải trọn 1 nhiệm kỳ kế tiếp đó (60 tháng).
![]()
Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 50-QĐ/TW ngày 27/12/2021 về công tác quy hoạch cán bộ. Trong đó, quy định rõ về tiêu chuẩn, điều kiện, độ tuổi quy hoạch cán bộ.
Cụ thể, tại Điều 8 Quy định nêu rõ về tiêu chuẩn, điều kiện: Tiêu chuẩn đối với cán bộ quy hoạch, cơ bản thực hiện như tiêu chuẩn bổ nhiệm đối với chức danh theo quy định hiện hành. Tại thời điểm quy hoạch, cấp có thẩm quyền có thể xem xét, phê duyệt quy hoạch đối với những cán bộ cơ bản đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện của chức danh bổ nhiệm theo quy định.
Về độ tuổi: Cán bộ được quy hoạch nhiệm kỳ kế tiếp phải đủ tuổi công tác 2 nhiệm kỳ trở lên, ít nhất phải trọn 1 nhiệm kỳ kế tiếp đó (60 tháng). Khi rà soát, bổ sung quy hoạch hằng năm cho nhiệm kỳ hiện tại, cán bộ đưa vào quy hoạch phải còn đủ tuổi công tác ít nhất từ 72 tháng trở lên.
Thời điểm tính tuổi quy hoạch:
- Đối với quy hoạch nhiệm kỳ kế tiếp: Chức danh cấp ủy, lãnh đạo cấp ủy, các ban, cơ quan của Đảng, ủy ban kiểm tra là thời điểm tiến hành đại hội đảng bộ các cấp; chức danh lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước là thời điểm bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; chức danh lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là thời điểm đại hội các cấp của mỗi tổ chức.
- Đối với rà soát, bổ sung quy hoạch: Là thời điểm cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ có thẩm quyền (Ban Tổ chức Trung ương đối với trường hợp các chức danh thuộc diện Trung ương quản lý; ban tổ chức cấp ủy các cấp đối với trường hợp khác) nhận được tờ trình và hồ sơ nhân sự theo quy định.
Hệ số quy hoạch cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp từ 1,0 - 1,5 lần so với số lượng theo quy định. Số lượng của chức danh quy hoạch lãnh đạo, quản lý: Mỗi chức danh quy hoạch không quá ba cán bộ và một cán bộ quy hoạch không quá ba chức danh ở cùng cấp.
Phấn đấu cơ cấu, tỉ lệ quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp theo hướng: Cán bộ trẻ (dưới 45 tuổi đối với Trung ương; dưới 40 tuổi đối với cấp tỉnh, cấp huyện) từ 15% trở lên, cán bộ nữ từ 25% trở lên; tỉ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với từng địa bàn, lĩnh vực; cấp huyện và tương đương trở lên phải có cán bộ nữ trong quy hoạch các chức danh cấp ủy, lãnh đạo, quản lý.
TIẾN HƯNG
Một số tồn tại, vướng mắc trong việc định tội danh đối với tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản'
4. Quy định về xử lý một số tình huống trong khi áp giải
(LSVN) - Nghị định 142/2021/NĐ-CP được Chính phủ ban hành (có hiệu lực từ ngày 01/01/2022) quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục xuất cảnh. Trong đó, quy định về xử lý một số tình huống trong khi áp giải.
![]()
Tại Điều 35 Nghị định quy định cụ thể về xử lý một số tình huống trong khi áp giải. Theo đó, trường hợp người bị áp giải có hành vi chống đối; người bị áp giải là người chưa thành niên có hành vi chửi bới, lăng mạ nhưng không tấn công bằng vũ lực thì người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải giải thích quy định của pháp luật, yêu cầu họ chấp hành quyết định; trường hợp người bị áp giải có hành vi tấn công bằng vũ lực, người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải có quyền sử dụng vũ lực, trói, khóa tay, chân, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để khống chế vô hiệu hóa hành vi chống đối của người bị áp giải.
Trường hợp người vi phạm bị áp giải bỏ trốn thì người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải yêu cầu những người có mặt phối hợp bắt giữ; trường hợp không bắt giữ ngay được đối tượng thì phải kịp thời báo cáo cho thủ trưởng đơn vị và liên hệ với chính quyền địa phương nơi xảy ra vụ việc để có phương án truy tìm người vi phạm bỏ trốn; đồng thời, lập biên bản về việc người bị áp giải bỏ trốn, có chữ ký của người chứng kiến; nếu không có người chứng kiến phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Trường hợp người bị áp giải bị phát bệnh đột xuất cần cấp cứu kịp thời thì người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải nhanh chóng đưa vào cơ sở khám bệnh, chữa bệnh gần nhất. Việc áp giải hoặc đưa lên cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến trên để tiếp tục chữa trị phải có xác nhận bằng văn bản của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh về tình trạng sức khỏe của người bị áp giải và người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải báo cáo ngay cho chỉ huy trực tiếp biết.
Trong thời gian cấp cứu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải có kế hoạch tổ chức canh giữ, giám sát chặt chẽ người vi phạm, không để trốn hoặc tự do tiếp xúc với người khác.
Trường hợp người bị áp giải bị chết bất thường thì phải đưa vào cơ sở khám bệnh, chữa bệnh gần nhất và báo cáo ngay thủ trưởng đơn vị, Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát nơi xảy ra vụ việc biết để tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật.
Mọi trường hợp áp giải người vi phạm đều phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết về hậu cần, liên hệ trước với chính quyền địa phương nơi dẫn giải người vi phạm đến trong việc quản lý người bị áp giải.
HỒNG HẠNH
Tăng chuyến bay đêm để giảm tải ùn tắc tại sân bay Tân Sơn Nhất
5. Cần làm gì để thay đổi nơi tập sự hành nghề Luật sư?
(LSVN) – Tôi đang tập sự hành nghề Luật sư tại Văn phòng Luật sư tỉnh A. Tuy nhiên, vì một số lý do nên tôi phải thay đổi nơi tập sự hành nghề Luật sư. Vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, tôi cần thực hiện trình tự, thủ tục gì để thay đổi nơi tập sự hành nghề Luật sư?
![]()
Căn cứ Thông tư số 10/2021/TT-BTP do Bộ Tư pháp vừa ban hành hướng dẫn tập sự hành nghề Luật sư. Thông tư này quy định về việc tập sự hành nghề Luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư; quản lý việc tập sự hành nghề Luật sư và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư; xử lý kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư.
Tại Điều 9 Thông tư quy định rõ về thay đổi nơi tập sự hành nghề Luật sư. Theo đó, người tập sự hành nghề Luật sư thay đổi nơi tập sự khi thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 8 của Thông tư này hoặc thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác.
Khoản 4 Điều 8 của Thông tư quy định: “Trong trường hợp tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự tạm ngừng hoặc chấm dứt hoạt động theo quy định của Luật Luật sư hoặc không còn Luật sư khác đủ điều kiện hướng dẫn thì người tập sự có thể đề nghị Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư giới thiệu tổ chức hành nghề Luật sư khác để tập sự. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người tập sự, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư có trách nhiệm phân công một Luật sư thành viên khác của Đoàn Luật sư là người đứng đầu tổ chức hành nghề Luật sư tiếp nhận người đó vào tập sự. Người đứng đầu tổ chức hành nghề Luật sư được phân công mà từ chối tiếp nhận tập sự khi không có lý do chính đáng thì bị xem xét, xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Thông tư này”.
Người tập sự thay đổi nơi tập sự từ tổ chức hành nghề Luật sư này sang tổ chức hành nghề Luật sư khác trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì phải báo cáo bằng văn bản về việc thay đổi đó cho Đoàn Luật sư nơi đăng ký tập sự. Báo cáo phải có nhận xét và chữ ký của Luật sư hướng dẫn, xác nhận của tổ chức hành nghề Luật sư nơi đã tập sự và tổ chức hành nghề Luật sư nơi chuyển đến.
Người tập sự thay đổi nơi tập sự sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác thì phải có văn bản đề nghị rút tên khỏi danh sách người tập sự của Đoàn Luật sư nơi đã đăng ký; đăng ký tập sự tại Đoàn Luật sư nơi có trụ sở của tổ chức hành nghề Luật sư mà mình chuyển đến kèm theo báo cáo quá trình tập sự.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của người tập sự, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư ra quyết định thay đổi nơi tập sự hoặc cho rút tên khỏi danh sách người tập sự. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư có trách nhiệm gửi văn bản thông báo cho tổ chức hành nghề Luật sư nơi đã tập sự, tổ chức hành nghề Luật sư nơi chuyển đến, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Sở Tư pháp nơi có trụ sở của Đoàn Luật sư.
Người tập sự thay đổi nơi tập sự thì thời gian tập sự được tính bằng tổng thời gian tập sự của người đó tại các tổ chức hành nghề Luật sư nếu thời gian tập sự tại mỗi tổ chức hành nghề Luật sư ít nhất là 02 tháng và phải có xác nhận bằng văn bản của tổ chức hành nghề Luật sư nhận tập sự, nhận xét bằng văn bản của Luật sư hướng dẫn về quá trình tập sự tại tổ chức đó. Trong trường hợp quá thời hạn 30 ngày, kể từ ngày quyết định thay đổi, người tập sự không thực hiện thủ tục thay đổi nơi tập sự hành nghề Luật sư thì phải tạm ngừng hoặc chấm dứt việc tập sự theo quy định tại Điều 11 của Thông tư này.
HỒNG HẠNH
Quy trình vệ sinh nơi ở, xử lý chất thải khi có F0 cách ly, điều trị
CHIỀU
1. Những nhiệm vụ trọng tâm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong nhiệm kỳ III
(LSVN) - Sau hơn 12 năm kể từ khi thành lập và sau hai nhiệm kỳ hoạt động, Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò “ngôi nhà chung” của giới Luật sư cả nước. Dẫu vậy, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và trước sự phát triển của cách mạng công nghệ 4.0 cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với Liên đoàn Luật sư Việt Nam và hoạt động nghề nghiệp của giới Luật sư cả nước.

Luật sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhiệm kỳ III.
Quán triệt về điều này, Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III đã dành nhiều thời gian thảo luận về phương hướng, giải pháp hoạt động cho cả nhiệm kỳ. Đặc biệt, Đại hội đã xác định cụ thể về 12 nhiệm vụ trọng tâm sẽ được Liên đoàn Luật sư Việt Nam thực hiện từ nay đến hết nhiệm kỳ.
Thứ nhất, củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhân sự làm việc chuyên trách và bán chuyên trách của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và hỗ trợ cho các Luật sư hành nghề. Bộ máy tổ chức nhân sự của tổ chức xã hội - nghề nghiệp không giống với bộ máy hành chính của nhà nước, bởi cùng với các quy định nó còn thể hiện vai trò tự quản, đặc thù nghề nghiệp. Họ phải đáp ứng những yếu tố về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời phải dành thời gian, tâm huyết và thể hiện được tinh thần xả thân vì công việc, chấp nhận thiệt thòi về quyền lợi. Có như vậy, những người đại diện mới có thể là tấm gương của đội ngũ Luật sư và từ đó có thể tạo lập được niềm tin của chính đội ngũ Luật sư vào “ngôi nhà chung” của mình và để xứng đáng là những người đại diện của Luật sư.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đồng đều cho đội ngũ Luật sư là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư. Trong đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho Luật sư là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, xuyên suốt để xây dựng các giá trị chuẩn mực của nghề Luật sư, đồng thời sẽ đổi mới mạnh mẽ công tác bồi dưỡng Luật sư, coi trọng việc tự bồi dưỡng, tự học tập của mỗi Luật sư và phát động phong trào học tập rèn luyện trong đội ngũ Luật sư. Đối với mỗi Luật sư, cần ý thức được việc tự học tập, rèn luyện là con đường đi suốt cuộc đời của nghề Luật sư nhằm xây dựng uy tín, thương hiệu cho cá nhân Luật sư và cho cả đội ngũ Luật sư, nghề Luật sư. Bên cạnh đó sẽ thường xuyên tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới công tác bồi dưỡng Luật sư hiệu quả, thiết thực, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức nghề nghiệp Luật sư, nhằm mang lại những giá trị đích thực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư.
Thứ ba, triển khai đồng bộ công tác bảo vệ quyền lợi Luật sư, trong đó có sự phối hợp giữa Luật sư, Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác. Thực tiễn cho thấy, nhận thức về những quy định của pháp luật do còn có những sự khác biệt về quyền lợi hợp pháp của Luật sư khi hành nghề, nên vẫn còn những hiện tượng cản trở quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư cần đề ra giải pháp, tích cực chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư. Sự phối hợp của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư với các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp cho Luật sư còn giúp cho các cơ quan nhà nước thực hiện và làm đúng các quy định của pháp luật. Từ đó, sẽ cùng có trách nhiệm trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Thứ tư, công tác giải quyết khiếu nại tố cáo có liên quan đến Luật sư là một trong những công việc khó khăn và phức tạp. Việc giải quyết khiếu nại tố cáo có liên quan đến Luật sư và xử lý kỷ luật luật sư thường mất rất nhiều thời gian, công sức của các cơ quan, đơn vị. Do đó, Liên đoàn và các Đoàn Luật sư cần tổ chức phân công công tác này một cách khoa học và hiệu quả; cần có chế độ chính sách phù hợp với những Luật sư được phân công tham gia công tác này; quá trình xác minh, giải quyết cần thận trọng, khách quan, chính xác theo quy định. Các kết luận và giải quyết xử lý vi phạm cần công khai minh bạch theo đúng quy định và nguyên tắc hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư. Các cơ quan, đơn vị của Liên đoàn và của Đoàn Luật sư cần tuân thủ thực hiện đúng quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến Luật sư và có sự phối hợp chặt chẽ để công tác này đạt hiệu quả.
Thứ năm, cùng với công tác xử lý kỷ luật, công tác khen thưởng Luật sư cần được tiến hành đồng bộ, kịp thời, phù hợp. Những Luật sư gương mẫu chấp hành pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư, có những thành tích đóng góp cho cộng đồng, cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho khách hàng thì tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư khen thưởng kịp thời. Kinh nghiệm của một số hiệp hội Luật sư ở các nước phát triển cho thấy, họ khen thưởng rất ít, chủ yếu coi việc Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho khách hàng là việc đương nhiên để phát triển nghề nghiệp; nếu làm không tốt bị chê trách hay khiếu nại thì sẽ bị xem xét đưa vào hình thức kỷ luật. Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về việc khen thưởng, trong nhiệm kỳ, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần phải có sự đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam và rất cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này cho phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay của nước ta.
Thứ sáu, công tác hợp tác quốc tế của Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần duy trì, kế thừa những mặt tích cực, hiệu quả đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời linh hoạt, chủ động mở rộng quan hệ với tổ chức, hoạt động nghề nghiệp Luật sư nước ngoài trên cơ sở chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhằm nâng cao vai trò, năng lực của Luật sư Việt Nam. Mặt khác, cần thể hiện thái độ xây dựng để củng cố niềm tin giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam với các đối tác quốc tế. Trong đó, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tập trung vào một số mũi nhọn trong hợp tác quốc tế để góp phần phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam trên một số lĩnh vực còn chưa mạnh như Luật sư tư vấn thương mại quốc tế, Luật sư về sở hữu trí tuệ, Luật sư tư vấn về tài chính, đấu thầu quốc tế…
![]()
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chụp ảnh lưu niệm cùng các đại biểu.
Thứ bảy, công tác quản lý tài chính, tài sản và xây dựng cơ sở vật chất của Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tiếp tục tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật, Điều lệ và Quy chế tài chính của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Việc điều hành quản lý tài chính của Liên đoàn Luật sư Việt Nam phải đảm bảo công khai, minh bạch, vì lợi ích chung của giới Luật sư, không để thất thoát, lãng phí, tham nhũng, vụ lợi. Tập trung vào việc đề xuất với cơ quan có thẩm quyền bố trí trụ sở làm việc cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư và thành lập trường đào tạo nghề Luật sư. Tích cực, chủ động tham gia các hoạt động chung, thông qua các chương trình, dự án, từ đó đề xuất các khoản hỗ trợ kinh phí hợp lý từ các tổ chức, cơ quan cho hoạt động của Luật sư.
Thứ tám, tăng cường quan hệ, phối hợp với Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan ban, ngành Trung ương và chính quyền các cấp ở địa phương trong các lĩnh vực công tác, nhất là trong quản lý, tạo điều kiện hành nghề và bảo vệ quyền lợi chính đáng của Luật sư. Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư và mỗi Luật sư cần thể hiện rõ trách nhiệm trong việc tham gia đóng góp vào công tác xây dựng, tuyên truyền giáo dục pháp luật, tham gia vào giám sát và phản biện xã hội; tham gia vào công tác trợ giúp pháp lý và các hoạt động xã hội khác. Qua đó, cần khẳng định và thể hiện sự đóng góp có chất lượng của đội ngũ Luật sư trong các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thứ chín, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, pháp lý và trách nhiệm xã hội. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư cần chủ động đề xuất với Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương để tham gia thực hiện một số nhiệm vụ chính trị, pháp lý theo đặc trưng nghề nghiệp Luật sư, đặc biệt là tham gia vào quá trình cải cách tư pháp, rà soát thủ tục hành chính, xây dựng pháp luật, cũng như tham gia giải quyết các phát sinh trong đời sống kinh tế - xã hội. Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư cần xây dựng chương trình hành động chung của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư, trong đó cần xác định rõ trách nhiệm và đề xuất những hành động và công việc mà Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư có thể tham gia đóng góp vào công việc chung của Nhà nước và xã hội.
Thứ mười, củng cố hoạt động truyền thông của Liên đoàn Luật sư Việt Nam để một mặt truyền thông kịp thời, chính xác tin cậy những đóng góp của đội ngũ Luật sư với Nhà nước và xã hội. Cùng với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Liên đoàn Luật sư Việt Nam hiện nay, cần sớm hình thành Trung tâm truyền thông của Liên đoàn để thực hiện ngày càng hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền về Luật sư và nghề Luật sư ở Việt Nam; bên cạnh đó chủ động phối hợp tốt với các cơ quan thông tấn báo chí khác nhằm quảng bá, truyền thông về nghề Luật sư. Cùng với đó, các Đoàn Luật sư cần hình thành hoặc hoàn thiện bộ phận chuyên trách về truyền thông, trang thông tin điện tử và có sự kết nối với công tác truyền thông của Liên đoàn, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan báo chí địa phương để triển khai ngày càng tốt hơn vai trò của mình. Thông qua hoạt động truyền thông sẽ khích lệ người tốt, việc tốt trong đội ngũ Luật sư, sàng lọc và loại bỏ những tiêu cực, hạn chế trong đội ngũ Luật sư; xây dựng hình ảnh về Luật sư công hiến phục vụ cộng đồng và phụng sự công lý.
Mười một, trước mắt sẽ xây dựng ba đầu tàu phát triển đội ngũ Luật sư nhằm nâng cao chất lượng hành nghề Luật sư, đó là: (1) đội ngũ Luật sư tham gia tranh tụng các vụ án hình sự; (2) đội ngũ Luật sư tư vấn, dịch vụ và tranh tụng lĩnh vực sở hữu trí tuệ; (3) đội ngũ Luật sư tư vấn đầu tư và thương mại quốc tế. Thông qua đó tạo lực đẩy để đưa đoàn tàu Luật sư Việt Nam tăng tốc phát triển trong thời gian tới, đồng thời dựa vào kết quả hoạt động Luật sư hàng năm, Liên đoàn sẽ tổng kết, rút kinh nghiệm để có thể đưa ra các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ Luật sư có khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý ở hầu hết các lĩnh vực pháp lý của đời sống xã hội. Từ đó, tạo lập niềm tin với khách hàng và xã hội.
Mười hai, phát triển nghề Luật sư, tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư gắn với chuyển đổi số. Đây chẳng những là xu hướng phát triển, mà còn là yêu cầu thực tế. Chuyển đổi số tạo điều kiện thuận lợi để Liên đoàn và các Đoàn Luật sư thực hiện nhiệm vụ tự quản, nâng cao chất lượng dịch vụ của Luật sư, hỗ trợ Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng nhanh chóng, khoa học, hiệu quả, giảm thiểu chi phí. Chuyển đổi số đồng thời giúp hoạt động của Luật sư tương thích với hoạt động của các ngành, nghề, cơ quan, ban ngành chức năng, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang quyết tâm xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số, đồng thời tiến tới tòa án xét xử trực tuyến. Liên đoàn Luật sư Việt Nam xác định đây là một trong những khâu đột phá, là nhiệm vụ và là công việc tất yếu trong định hướng phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam trong thời gian tới.
BẢO ANH
Nghề Luật sư ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai
2. Một số trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi cho vay nặng lãi
(LSVN) – Trường hợp người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản,...) thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
![]()
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021, hướng dẫn áp dụng Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) về việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Theo đó, tại Điều 7 Nghị quyết quy định rõ việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể.
Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà số tiền thu lợi bất chính của mỗi lần phạm tội từ 30.000.000 đồng trở lên, nếu mỗi lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà các lần thu lợi bất chính đều dưới 30.000.000 đồng nhưng tổng số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và các hành vi này chưa lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, trong đó có một lần cho vay lãi nặng, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và hành vi cho vay lãi nặng này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; còn các hành vi cho vay lãi nặng khác thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, các hành vi này chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản,...) thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Trường hợp người cho vay lãi nặng nhằm thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người cho vay chưa thu lợi bất chính hoặc đã thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính mà họ nhằm đạt được. Việc xác định số tiền thu lợi bất chính được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết này. Khi quyết định hình phạt, Tòa án áp dụng Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự về phạm tội chưa đạt.
Trong vụ án hình sự, người cho vay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo Điều 201 của Bộ luật Hình sự thì người vay tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
PHƯƠNG MAI
Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
3. Quy định mới về nội dung cần kê khai đối với người đề nghị cấp thẻ nhà báo
(LSVN) – Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý nhất của Thông tư số 31/2021/TT-BTTTT vừa được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành.
![]()
Theo đó, Thông tư quy định về việc người đề nghị cấp thẻ nhà báo kê khai Số định danh cá nhân (Mẫu số 01), thay vì phải kê khai một số trường thông tin (quê quán; nơi ở hiện nay; số giấy chứng minh nhân dân/thẻ căn cước công dân).
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, tạm thời vẫn phải kê khai thông tin về ngày sinh, dân tộc (để phục vụ việc in thẻ và xác định điều kiện của người được cấp thẻ là người dân tộc) do cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chưa hoàn thành, chưa được chia sẻ.
Về hồ sơ, thủ tục cấp thẻ nhà báo, Điều 6 Thông tư nêu rõ, cơ quan đề nghị cấp thẻ nhà báo gửi 01 bộ hồ sơ gồm có:
- Bản khai đăng ký cấp thẻ nhà báo do người được đề nghị cấp thẻ nhà báo kê khai theo mẫu (Mẫu số 01);
- Bản sao điện tử (trường hợp gửi hồ sơ trên Cổng dịch vụ công của Bộ Thông tin và Truyền thông) hoặc bản sao (trường hợp gửi hồ sơ trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính) Bằng tốt nghiệp đại học trở lên hoặc Bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên đối với trường hợp là người dân tộc thiểu số quy định tại điểm b khoản 1 Điều 27 Luật Báo chí (không áp dụng đối với trường hợp cấp đổi thẻ nhà báo theo kỳ hạn mới);
- Bản sao điện tử (trường hợp gửi hồ sơ trên Cổng dịch vụ công của Bộ Thông tin và Truyền thông) hoặc bản sao (trường hợp gửi hồ sơ trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính) Quyết định tuyển dụng hoặc Hợp đồng lao động và văn bản khác có liên quan (tài liệu có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền thể hiện thời gian đóng bảo hiểm xã hội tại cơ quan báo chí, cơ quan công tác hoặc thể hiện việc thanh toán, chi trả tiền lương/tiền công/tiền thù lao/tiền nhuận bút theo tháng) để chứng minh thời gian công tác liên tục hai (02) năm trở lên tại cơ quan báo chí đề nghị cấp thẻ nhà báo hoặc tại đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện và tương đương;
- Danh sách tác phẩm báo chí đã đăng, phát đối với trường hợp quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 26 Luật Báo chí (Mẫu số 02);
- Bản tổng hợp danh sách đề nghị cấp thẻ nhà báo (Mẫu số 03).
Cơ quan đề nghị cấp thẻ nhà báo gửi hồ sơ trước ngày 01 tháng 11 và ngày 21 tháng 4 hàng năm, trước ngày 01 tháng 9 năm cuối cùng của thời hạn sử dụng thẻ nhà báo để xét cấp thẻ.
Bộ Thông tin và Truyền thông cấp thẻ nhà báo vào ngày 01 tháng 01 và ngày 21 tháng 6 hàng năm; trường hợp từ chối cấp thẻ, các cơ quan được quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này thông báo, nêu rõ lý do trên cống dịch vụ công của Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc bằng văn bản.
HỒNG HẠNH
Xin tiền doanh nghiệp là nhũng nhiễu, tiêu cực!
4. Xuân sớm
(LSVN) - Trong hành trình nghề nghiệp, bất chợt giữa đời thường sau những giờ tranh tụng, nhiều Luật sư đã đến với thơ như là nơi chia sẻ cảm xúc. Chào Xuân Nhâm Dần, Tạp chí Luật sư Việt Nam giới thiệu đến bạn đọc chùm thơ của Luật sư Nguyễn Minh Tâm.
Em choàng chiếc áo màu xuân cũ
Trễ xuống vai xưa một nét hờ
Tìm ghé thăm tôi chiều đông muộn
Nụ cười còn ấp vẻ non tơ.
Bốn mắt dìu nhau vào bỡ ngỡ
Ba mươi năm, ừ nhỉ...
đúng rồi
Nghe trong gió mùi heo may đẫm
Giọt mưa phùn mằn mặn đầu môi.
Ba mươi năm...
em thành người xứ lạ
Từng câu thơ bạc như tuyết giữa mùa
Nhịp sống xa cuốn em vào toan tính
Vẫn lặng trong lòng một dấu xưa !
Em tặng tôi một bông hoa nhỏ
Cánh sao e ấp nhụy vàng tươi
Hương xuân mướt trong từng sắc mỏng
Hoa thì thầm... xuân sớm đấy...
Người ơi!
LUẬT SƯ NGUYỄN MINH TÂM
5.
SÁNG SỚM MÙNG 3
1. Những khó khăn, vướng mắc về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
(LSVN) - Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS) quy định về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viên thông đã khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (BLHS năm 1999). Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, thực hiện chủ trương về tăng tính hướng thiện và phòng ngừa tội phạm, tăng cường áp dụng các chế tài không tước tự do, bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, thuận lợi cho việc áp dụng điều luật trong xử lý tội phạm. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật còn có những khó khăn, vướng mắc nhất định.
![]()
1. Những quy định tiến bộ của luật
Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông được quy định tại Mục 2, Chương XXI BLHS bao gồm 09 điều, từ Điều 285 đến Điều 294 (bỏ Điều 292 so với quy định cũ). Nội dung sửa đổi, bổ sung đã có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với BLHS năm 1999.
BLHS đã bổ sung 05 tội danh mới quy định tại các điều: Điều 285 (Tội “Sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật”); Điều 291 (Tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”); Điều 292 (Tội “Cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông”); Điều 293 (Tội “Sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh); Điều 294 (Tội cố ý gây nhiễu có hại”). Sửa đổi các tội phạm khác trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Các tình tiết định tính chưa được cụ thể hoá, nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa được quy định trong BLHS năm 1999 hoặc có nhưng chưa phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì nay đã được cụ thể hóa trong quy định của BLHS.
2. Khó khăn, vướng mắc
Bên cạnh những điểm mới, tiến bộ của luật, quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật trên thực tiễn, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc sau:
Một là, khó khăn trong vấn đề thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử (DLĐT).
Hầu hết các tôi phạm trên lĩnh vực này không phải là phạm tội quả tang, mà chủ yếu qua lời khai của bị hại. Do đó, gây khó khăn trong việc truy vết DLĐT, nguồn gốc tội phạm; thủ phạm xóa dấu vết nên dễ dàng che dấu hành vi phạm tội của mình.
Bên cạnh đó, trình độ cán bộ chuyên môn còn hạn chế trong việc phục hồi, phân tích, đánh giá, bảo quản chứng cứ là DLĐT được tạo ra trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông. Việc chuyển hóa chứng cứ điện tử, giám định điện tử thành các tài liệu có thể đọc, nghe, nhìn được để làm nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 rất khó khăn. Việc xác định đối tượng phạm tội tạo ra những DLĐT đó rất khó xác định.
Khi có yêu cầu của các cơ quan có chức năng về việc cung cấp lịch sử cuộc gọi, cung cấp các giao dịch liên quan đến hoạt động ngân hàng thì các công ty viễn thông và ngân hàng thường từ chối, bởi liên quan đến việc bảo mật thông tin cá nhân khách hàng, quá thời hạn lưu trữ thông tin.
Hai là, khó khăn trong việc phân hóa tội phạm, xác định tội danh.
Điều 285 BLHS quy định "Người nào sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử…" và Điều 286 BLHS quy định "Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử…", với quy định tại hai điều luật trên ta thấy:
Thứ nhất, xem xét về mặt khái niệm: "Phát tán" là hành vi truyền đi các thông tin, tài liệu, đồ vật, hình ảnh, âm thanh… bằng các hình thức khác nhau cho nhiều người biết. Như vậy, với quy định "sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho" cũng là một phương thức để phát tán.
Nhưng điểm khác biệt ở hai điều luật này là: Hành vi quy định tại Điều 285 có thể gây hại hoặc không gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử và dấu hiệu mục đích của hành vi là bắt buộc để cấu thành tội phạm, còn hành vi quy định tại Điều 286 phải gây nguy hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử mới đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Thứ hai, xem xét quy định về "Chương trình tin học" và "Phần mềm": "Chương trình tin học" là một chuỗi các lệnh, được viết để thực hiện một nhiệm vụ nhất định trên máy tính. "Phần mềm" là tập hợp dữ liệu hoặc các câu lệnh hướng dẫn máy tính cho máy tính biết cách làm việc. Điều này trái ngược với phần cứng vật lý, từ đó hệ thống được xây dựng và thực sự thực hiện công việc. Trong khoa học máy tính và kỹ thuật phần mềm, phần mềm máy tính là tất cả thông tin được xử lý bởi hệ thống máy tính, chương trình và dữ liệu. Phần mềm máy tính bao gồm các chương trình máy tính, thư viện và dữ liệu không thể thực thi liên quan, chẳng hạn như tài liệu trực tuyến hoặc phương tiện kỹ thuật số.
Như vậy, một phần mềm cần phải có một hoặc nhiều chương trình tin học, có nghĩa là, phần mềm sẽ chứ đựng chương trình tin học. trên thực tế rất khó xác định đâu là phần mềm và đâu là chương trình tin học một cách đơn thuần mà cần phải có chuyên gia xem xét, đánh giá. Bởi lẽ, một hành vi phạm tội nếu phát tán (bao hàm cả việc sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho) chương trình tin học chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 286 BLHS vì không gây hại (như đã phân tích trên) nhưng thỏa mãn các quy định tại Điều 285 BLHS thì có truy tố theo tội danh này không vì Điều 285 BLHS quy định là "…phần mềm…".
Hơn nữa, nếu hành vi phát tán có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 286 BLHS, nhưng điều luật này quy định hậu quả là yếu tố bắt buộc, còn Điều 285 BLHS thì hậu quả là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong khi đó mức hình phạt ở hai tội danh này khác nhau. Vậy một hành vi vừa thỏa mãn cấu thành tội phạm theo Điều 286, vừa thỏa mãn cấu thành tội phạm và tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 285 thì áp dụng điều luật nào để xử lý.
Ví dụ: Nguyễn Văn A. có hành vi rao bán chương trình theo dõi tin nhắn trên mạng xã hội, đánh cắp dữ liệu, thông tin, thay đổi cài đặt máy tính, chiếm đoạt điều khiển của đối phương khi đã cài đặt chương trình này vào máy và máy tính có kết nối internet. Sau một thời gian rao bán và giao dịch, khi phát hiện A. đã thu lợi bất chính từ hành vi này là 50.000.000 đồng.
Như vậy, hành vi của A. thỏa mãn quy định tại Điều 286 BLHS, nhưng khi đánh giá, các chuyên gia cho rằng, chương trình tin học mà A. phát tán là một phần mềm, mà phần mềm đó có tính năng tấn công máy tính đối phương khi đã cài đặt, vậy hành vi A. thỏa mãn cấu thành quy định tại khoản 2 Điều 285 BLHS. Điều này còn gây tranh cãi nhiều; bên cạnh đó, người sử dụng phần mềm nêu trên, khi đột nhập vào mạng máy tính, mạng viễn thông, thì có đủ yếu tố cấu thành tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác quy định tại Điều 289, nhưng Điều 289 quy định tội danh nặng hơn Điều 286, điều đó là không hợp lý, bởi xét mục đích việc tạo ra phần mềm của A là để người khác sử dụng phạm tội, trong khi đó tội phạm A thực hiện lại có hình phạt nhẹ hơn là chưa hợp lý.
Ba là, có nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa được quy định trong luật.
Căn cứ tình hình diễn biến hành vi vi phạm trên lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông hiện nay, có rất nhiều hành vi với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, có thể được xem là tội phạm nhưng chỉ dừng lại ở mức độ xử phạt vi phạm hành chính, có nghĩa là chưa được quy định trong BLHS. Ngày 03/02/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP (Nghị định số 15) để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, Nghị định này quy định rất nhiều hành vi vi phạm phải xử phạt, trên thực tế xét về tính chất, mức độ hành vi thì rất nguy hiểm cho xã hội nhưng lại chưa có quy định trong BLHS.
3. Đề xuất, kiến nghị
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, thiết nghĩ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cần ban hành sớm những quy định, hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất pháp luật liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông, tạo điều kiện thuận lợi cho nhận thức pháp luật.
Đề xuất bổ sung những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Nghị định số 15 của Chính phủ vào Bộ luật Hình sự, để có cơ sở xử lý những hành vi vi phạm có tính chất, mức độ vượt quá giới hạn của vi phạm hành chính, tạo tính giáo dục, răn đe, trừng trị và pháp luật phải bắt kịp với xu hướng phát triển của thời đại.
VÕ MINH TUẤN
Một số tồn tại, vướng mắc trong việc định tội danh đối với tội 'Lừa đảo chiếm đoạt tài sản'
2. Xử lý như thế nào khi người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính bị chết trong thời gian tạm giữ?
(LSVN) – Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý như thế nào đối với trường hợp người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính bị chết trong thời gian tạm giữ? Bạn đọc H.A. hỏi.
![]()
Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 29 Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định về xử lý đối với trường hợp người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính bị chết trong thời gian tạm giữ.
Trường hợp người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính mà bị chết trong thời gian bị tạm giữ thì người ra quyết định tạm giữ phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật, đồng thời, lập biên bản về việc người tạm giữ bị chết và thông báo ngay cho gia đình, thân nhân của người chết biết; gia đình người chết có trách nhiệm mai táng người chết.
Trường hợp người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính chết mà không có gia đình, thân nhân thì việc mai táng do cơ quan, đơn vị nơi tạm giữ phối hợp với chính quyền địa phương nơi tạm giữ giải quyết việc mai táng; kinh phí mai táng trong trường hợp này do ngân sách nhà nước chi trả theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người bị tạm giữ theo thủ tục hành chính chết là người nước ngoài thì người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính phải báo cáo ngay với cơ quan có thẩm quyền cấp trên biết để thông báo ngay cho Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phối hợp với cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện ngoại giao của nước mà người chết có quốc tịch để phối hợp giải quyết.
Biên bản về việc người tạm giữ theo thủ tục hành chính bị chết trong thời gian tạm giữ phải ghi rõ các nội dung:
- Họ tên người bị tạm giữ; ngày, tháng, năm sinh của người bị tạm giữ;
- Số định danh cá nhân, số Căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân/Hộ chiếu/các giấy tờ cá nhân có liên quan; địa điểm tạm giữ;
- Tình trạng sức khỏe của người tạm giữ khi tiếp nhận;
- Quá trình xử lý người tạm giữ từ khi tiếp nhận tới khi người bị tạm giữ chết;
- Lý do người tạm giữ bị chết.
HÀ ANH
Quy trình vệ sinh nơi ở, xử lý chất thải khi có F0 cách ly, điều trị
3. Quy định về xử lý đơn tố cáo trong thi hành án dân sự
(LSVN) – Vừa qua, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 13/2021/TT-BTP về quy trình xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13/02/2022. Trong đó, Thông tư quy định về xử lý đơn tố cáo trong thi hành án dân sự.
![]()
Tố cáo về thi hành án dân sự là việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án dân sự.
Quy định về xử lý đơn tố cáo trong thi hành án dân sự được thể hiện rõ tại Điều 16 Thông tư 13/2021/TT-BTP. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ra quyết định thụ lý tố cáo. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh hoặc ủy quyền cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, xác minh thì thời hạn này có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc. Trường hợp không đủ điều kiện thụ lý theo quy định tại Điều 29 Luật Tố cáo thì người có thẩm quyền không thụ lý tố cáo và thông báo ngay cho người tố cáo biết lý do không thụ lý tố cáo.
Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể làm việc trực tiếp với người tố cáo để làm rõ nội dung tố cáo và các vấn đề khác có liên quan trước khi thụ lý giải quyết tố cáo.
Trường hợp đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền thì chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn và thông báo cho người tố cáo biết.
Trường hợp thực hiện lưu đơn:
- Đơn tố cáo đã được chuyển, hướng dẫn, trả lời, giải quyết theo quy định của pháp luật nhưng đương sự vẫn tiếp tục có đơn cùng nội dung;
- Đơn không rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo, đơn không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo;
- Đơn viết bằng tiếng nước ngoài không kèm bản dịch được công chứng;
- Đơn có nội dung chống đối đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc có nội dung chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo;
- Đơn có lời lẽ thô tục, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
- Đơn rách nát, chữ viết bị tẩy xóa, không rõ, không thể đọc được;
- Đơn qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo dùng tên người khác để tố cáo; tố cáo không thực hiện đúng theo hình thức quy định tại Điều 22 Luật Tố cáo;
- Đơn đồng thời đề gửi nhiều cơ quan, trong đó đã đề gửi cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
- Đơn không rõ nội dung mà đã mời người tố cáo hợp lệ hai lần để xác định nội dung tố cáo hoặc đã có văn bản yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu nhưng người tố cáo không đến, không cung cấp theo yêu cầu mà không có lý do chính đáng.
Thời hạn lưu đơn là 01 năm, hết thời hạn lưu đơn thì xem xét, quyết định việc tiêu hủy đơn theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có văn bản chuyển đơn tố cáo và hồ sơ, tài liệu kèm theo đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đơn không rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo; đơn qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo hoặc người tố cáo dùng tên người khác để tố cáo; nội dung tố cáo được phản ánh không thực hiện theo hình thức quy định tại Điều 22 Luật Tố cáo nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền hoặc chuyển người có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra phục vụ công tác quản lý.
Trong quá trình xử lý đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giữ bí mật thông tin của người tố cáo, nội dung tố cáo theo quy định của pháp luật. Trường hợp người tố cáo đề nghị được bảo vệ thì đề nghị người có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
THU HƯƠNG
Quy định về thụ lý đơn khiếu nại trong thi hành án dân sự
4. Hoạt động ân xá theo pháp luật triều Nguyễn
(LSVN) - Theo Điều 16, 362, 382, 383 Luật Gia Long, thường thì vào cuối năm sang xuân hoặc vào năm có đại lễ, nhà vua xuống lệnh ân xá cho các phạm nhân. Trường hợp do thời tiết quá nóng, quá lạnh hoặc thiên tai, mất mùa, lụt lội, hạn hán thì nhà vua cũng cho tổ chức việc ân xá.
![]()
Ảnh minh họa.
Người phạm tử tội chỉ trong trường hợp đặc biệt mới được ân xá. Phạm tội lưu nếu đang trên đường đi mà gặp dịp ân xá thì được thả về (tính theo ngày vua ký duyệt lệnh ân xá). Nếu đã đến nơi phát phối thì dù có gặp dịp ân xá cũng không được trở về quê.
Người phạm tội đồ, trên đường đi hay đã đến nơi nếu gặp được dịp ân xá thì đều được thả.
Luật Gia Long quy định: “Phàm chiếu ân xá ban đến thì xét ngay một lần rồi phóng thích ngay, lập biên bản cho đầy đủ".
Tội nào đáng nghi ngờ thì gia hạn 1 tháng, dâng sớ thỉnh lên nhà vua. Đối với quan xử án do xử lầm lẫn bị khép vào tội khi gặp dịp ân xá thì khỏi phải tội. Trường hợp vi phạm nặng thì tra hỏi kỹ và tâu lên vua để xin định đoạt. Trường hợp nghe tin sắp có ân xá mà cố phạm tội để mong được ân xá thì bị xử nặng hơn trường hợp thường một bậc.
Bên cạnh đó, Điều 15 Luật Gia Long còn quy định rõ về những trường hợp phạm tội không được tha do mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như các tội thập ác, giết người, bạo trộm, thông gian, đốt nhà, đào mả, buôn người, cướp người, ăn của đút lót, lừa đảo, trộm đồ quan, trộm vặt.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ân xá là đặc ân của nhà nước trong việc miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với những người phạm tội, mở ra cho những người phạm tội khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội và nhanh chóng tái hoà nhập cộng đồng.
Ân xá được thực hiện với hai hình thức là đại xá và đặc xá. Theo Luật Đặc xá năm 2018, đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
Nhà nước động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo để được hưởng đặc xá; tạo điều kiện thuận lợi cho người được đặc xá hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa tái phạm tội, vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, theo khoản Điều 106 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện. Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Phạm tội lần đầu;
- Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
- Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;
- Có nơi cư trú rõ ràng.
CẨM NGỌC
Tội 'Bức tử' theo quy định của Bộ luật Hình sự
5.

