Một số nội dung cụ thể là: Thứ nhất, theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 giữa hai tình tiết “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” có dấu “phẩy” ngăn cách thì đây được xem là một hay hai tình tiết giảm nhẹ? Khi người phạm tội đủ điều kiện thoả mãn một trong hai tình tiết này là “thành khẩn khai báo” hoặc “ăn năn hối cải” thì có được áp dụng quy định này không? Hay phải thỏa mãn cả hai điều kiện này thì mới được áp dụng?.
Thứ hai, nhiều trường hợp bị cáo đã khai hết toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội nhưng họ cho rằng hành vi của mình không phải là tội phạm, do đó Hội đồng căn cứ vào hành vi này nên không áp dụng tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo”.
Thứ ba, có nhiều trường hợp tại phiên tòa, bị cáo không khai báo trung thực mà phải đấu tranh, dùng các biện pháp nghiệp vụ đến lúc bị cáo thấy không thể chối cãi được mới nhận tội nhưng Hội đồng xét xử vẫn áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo”. Hay người phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ rõ ràng, bị cáo không thể chối tội mà phải khai ra, Hội đồng xét xét xử áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo”.
Về góc độ pháp lý, thì người phạm tội “thành khẩn khai báo” là trường hợp người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện việc khai báo đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì có liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, còn “ăn năn hối cải” là trường hợp sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội thể hiện sự cắn rứt, giày vò về lương tâm về hành vi phạm tội của mình không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả hành động, việc làm cụ thể để chứng minh cho việc mình muốn sửa chữa, cải tạo thành người tốt; bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra. Khác với “tự thú”, tự thú là tự nói ra tội lỗi của mình, nếu phân tích theo nghĩa rộng thì tự thú bao hàm cả khái niệm thật thà khai báo, chỉ coi tự thú khi tội phạm họ thực hiện chưa bị phát hiện nhưng tự đến cơ quan có thẩm quyền để khai báo hành vi phạm tội của mình. Theo Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của TANDTC thì: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra. Nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa nội hàm của các cụm từ "thành khẩn khai báo"," ăn năn hối cải" thì đây được hiểu là hai khái niệm hay hai tình tiết giảm nhẹ khác nhau cùng được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử và với cách quy định của BLHS tại điểm s khoản 1 Điều 51 thì cần hiểu nếu người phạm tội đáp ứng một trong hai điều kiện “Thành khẩn khai báo” hoặc “ăn năn hối cải” hoặc đáp ứng cả hai điều kiện này thì cũng chỉ được áp dụng một tình tiết giảm nhẹ chung.
Đối với trường hợp thứ hai, qua thực tiễn xét xử và tham khảo hướng dẫn tại mục 23 Phần I Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Toà án nhân dân tối cao về việc giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng thì trường hợp bị cáo thật thà khai báo về những hành vi mà họ đã thực hiện như cáo trạng truy tố, nhưng cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, không thừa nhận là đã phạm tội, thì họ có được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 38 BLHS (người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm) hay không?.
Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 38 BLHS, thì được coi là tình tiết giảm nhẹ nếu "người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm". Như vậy, đối với trường hợp người phạm tội thật thà khai báo về những hành vi mà họ đã thực hiện, nhưng do không hiểu biết pháp luật nên cho rằng hành vi của họ là hợp pháp, không thừa nhận là đã phạm tội, nhưng sau khi được cơ quan tiến hành tố tụng phân tích giải thích, họ biết được tội lỗi và ăn năn hối cải, thì xét xử, Toà án cần cho họ được hưởng tình Tiết giảm nhẹ "thật thà khai báo, ăn năn hối cải" quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 38 BLHS (tương ứng với điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015).
Đối với trường hợp tuy khai nhận đầy đủ những hành vi mà họ đã thực hiện nhưng quanh co không nhận tội và mặc dù đã được cơ quan tiến hành tố tụng phân tích giải thích nhưng vẫn tỏ ra ngoan cố, không chịu ăn năn hối cải, thì khi xét xử, Toà án không áp dụng tình tiết "thật thà khai báo, ăn năn hối cải" đối với họ. Trường hợp người phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ rõ ràng, bị cáo không thể chối tội mà phải khai ra, thì có áp dụng tình tiết này không? Quan điểm của người viết là vẫn áp dụng vì có lợi cho bị cáo và phải căn cứ vào mức độ thành khẩn đến đâu, thời điểm nào để áp dụng hình phạt cho tương xứng.
Hiện nay, còn có quan điểm khác nhau về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” “ăn năn hối cải”, nếu chỉ căn cứ vào hình thức để giải thích và xác định số lượng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì sẽ gây nên nhiều cách hiểu khác nhau, bởi vì theo quy định của BLHS thì cũng có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sử dụng dấu “phẩy” ở giữa các tình tiết và đây được xem là các tình tiết độc lập. Tuy nhiên, qua thực tế áp dụng pháp luật cho thấy hầu hết các trường hợp, người phạm tội chỉ cần thỏa mãn một hai yếu tố là “thành khẩn khai báo” hoặc “ăn năn hối cải” thì được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và đây là 1 trong những căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Trên đây là quan điểm nghiên cứu về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đưa ra trao đổi cùng quý bạn đọc và đồng nghiệp.
HỒ QUÂN
Tòa án quân sự khu vực Quân khu 4