Bản án phúc thẩm dân sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai có vi phạm tố tụng?

07/11/2023 18:04 | 6 tháng trước

(LSVN) - Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm: “Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.”

Ngày 12/9/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm về việc “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất” và “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với bản án sơ thẩm số 19/2022/2022/DS-ST ngày 23/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, theo kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lân.

Nội dung vụ án thể hiện: “Bà từng là công nhân của Công ty cổ phần mía đường La Ngà (Công ty) từ năm 1988 đến năm 2005 nên được suất mua nhà thanh lý cùng với đất của Công ty diện tích 849m2 tọa lạc tại số 1/2 , ấp 4, xã La Ngà, huyện Định Quán có kích thước 14m chiều ngang x 60m chiều dài. Khi mua, Công ty có lập giấy bán đất cho bà nhưng thời gian đã lâu, bà làm mất giấy nên không thể cung cấp cho Tòa án. Sau khi có đất, bà cất nhà tạm ở cùng chồng là ông Phan Thanh Dương.

Diện tích đất 849m2 là tài sản chung của bà với ông Phan Thanh Dương; đất thuộc thửa tạm 206A, tờ bản đồ số 22, ấp 4, xã La Ngà, huyện Định Quán nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Dương đã nộp tiền thu phí các công trình công cộng (hạ thế lưới điện) theo biên lai thu số 003763 ngày 28/7/1998 của Ban quản lý dự án.

(Ngày 03/10/1995, bà từng mua của Công ty 01 lô đất trong phạm vi đất của Công ty có ký hiệu là lô C3 có kích thước rộng 4,7m x dài 14,5m do đại diện lãnh đạo Công ty ký biên bản bản bàn giao cho bà. Sau khi kê khai, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thành 02 thửa là 206B và 206C tờ bản đồ 22, xã La Ngà - theo bản đồ mới là thửa 324 và 325, tờ 22, ấp 4, xã La Ngà. Tuy nhiên 2 thửa đất này không bị tranh chấp trong vụ án mà chỉ giáp ranh với thửa đất số 206A tờ 22 mà bà đang khởi kiện). 

Do trong quá trình làm ăn chung với bà Nguyễn Thị Tâm (kinh doanh bất động sản, chăn nuôi heo và nuôi cá, kinh doanh thức ăn gia súc), bà có nợ bà Tâm số tiền 736.000.000 đồng nên hai bên thỏa thuận chuyển thành tiền vay, có lập “Giấy vay tiền” viết tay đề ngày 06/8/2009 và bà phải trả lãi vay theo ngày cho bà Tâm 35.000 đồng/ngày/1.000.000 đồng. 

Để đảm bảo cho khoản nợ, bà Tâm buộc bà phải làm giấy sang nhượng cho bà Tâm thửa đất số 206A, tờ bản đồ số 22. Do không còn tiền để thanh toán, bà đành đồng ý làm giấy sang nhượng thửa đất này cho bà Tâm; giấy sang nhượng do con ruột của bà là cháu Phan Thị Thảo Uyên viết, bà ký ghi họ tên bên dưới. Bà khẳng định là bà không sang nhượng đất cho bà Tâm mà giấy sang nhượng đất chỉ nhằm mục đích cho bà Tâm yên tâm về số nợ của bà và để không tính tiền lãi nữa.

Năm 2011, bà Tâm buộc bà phải làm thủ tục bán đất có công chứng nên ngày 07/3/2011, bà và cháu Uyên ra Phòng Công chứng số 2 tỉnh Đông Nai (địa chỉ: Khu phố Hiệp Tâm 1, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán) làm giấy ủy quyền cho bà Tâm diện tích đất nói trên theo hồ sơ công chứng số 75 quyền số 1TP/CC-SCC/HĐGD ngày 07/3/2011 của Phòng Công chứng số 2, tỉnh Đồng Nai. Bà thừa nhận chữ ký trong giấy ủy quyền là của bà, do bà ký và lăn tay trước sự chứng kiến của Công chứng viên nhưng bản chất lại không đúng với ý chí tự nguyện của bà và cháu Uyên mà do bà Tâm thúc ép.

Bà thừa nhận giấy nhận tiền sang nhượng đất 700.000.000 đồng lập ngày 07/3/2011 là do cháu Uyên viết, hai bên cùng ký nhưng bà và chị Uyên không nhận được tiền mà chỉ ký giấy nhằm hợp thức hóa việc sang nhượng đất. Về quá trình sử dụng đất, sau khi viết giấy bán đất, bà vẫn cho bà Trương Thị Mỹ Hương, Trần Thị Tuyết Mai thuê mặt bằng nhưng bị bà Tâm lấy hết tiền thuê và bà Tâm cho người khác thuê đất cho đến nay.

Nay, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Tuyên bố hồ sơ công chứng số 75 quyển số 1TP/CC-SCC/HĐGD ngày 07/3/2011 của Phòng Công chứng số 2, tỉnh Đồng Nai là vô hiệu vì không đúng ý chí tự nguyện của bà và chị Uyên. 

2. Buộc bà Tâm, ông Tăng phải trả lại cho bà thửa đất số 206A, tờ bản đồ số 22, diện tích 849m2 tọa lạc tại số 1/2, ấp 4, xã La Ngà, huyện Định Quán cùng toàn bộ tài sản gắn liền với đất bao gồm: 01 giếng đào sâu 12m; 01 giếng khoan sâu 40m; 01 kết cấu quán khung sắt lợp lá; 01 ki ốt bán trái cây tưởng xây gạch, cửa bằng sắt.”

Bà Nguyễn Thị Tâm có yêu cầu phản tố với nội dung yêu cầu bà Lân (nguyên đơn) phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy sang nhượng đất và giấy ủy quyền cho bà và bà không phải trả thêm bất cứ khoản tiền nào cho bà Lân. Ngày 10/6/2022, bà Tâm sửa đổi bổ sung yêu cầu phản tố theo đó xác định nếu Tòa tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà và bà Lân thì bà yêu cầu Tòa án công nhận bà là người sử dụng đất ổn định từ năm 2009 đến năm 2018 để bà được quyền kê khai cấp quyền sử dụng đất.

Với nội dung nêu trên bản án sơ thẩm số 19/2022/DS-ST, Tòa án nhân dân huyện Định Quán đã tuyên:

“1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lân về việc đòi lại quyền sử dụng đất 819m2 thuộc thửa tạm 206A, tờ bản đồ 22 tại ấp 4, xã La Ngà, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Tâm.

2. Tuyên bố vô hiệu hợp đồng công chứng số 75 quyển số 01TP/CC- SCC/HĐGD ngày 07/3/2011 của Phòng Công chứng số 2.

3. Bà Nguyễn Thị Tâm có quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích 849m2 thuộc thửa tạm 206A, tờ bản đồ số 22, ấp 4, xã La Ngà, huyện Định Quán và chấp hành đúng quy hoạch, thu hồi đất của nhà nước.”

Không đồng ý bản án sơ thẩm bà Lân kháng cáo toàn bộ bản án. Bị đơn là bà Tâm không kháng cáo mà chấp nhận án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bà Lân đề nghị Hội đồng xét xử hủy Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Định Quán để xét xử lại theo thủ tục chung bởi các lý do:

Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm đã không đưa Ủy ban nhân dân huyện Định Quán vào tham gia tố tụng.

Thứ hai, Bản án sơ thẩm tuyên không đúng nội dung mà hai bên đương sự tranh chấp, cụ thể Tòa án nhân dân huyện Định Quán tuyên vô hiệu hợp đồng công chứng số 75 quyển số 1/TP-CC-SCC/HĐGD ngày 07/3/2021 của Phòng công chứng số 2. Thực tế Phòng công chứng số 2 không ký hợp đồng chuyển nhượng mà chỉ ký Giấy ủy quyền.

Thứ ba, giữa hai bên đương sự có ký hợp đồng chuyển nhượng đất (giấy tay) ngày 25/11/2009 chưa được Tòa án nhân dân huyện Định Quán xem xét thì hợp đồng vẫn còn tồn tại là chưa giải quyết triệt để vụ án.

Các ý kiến nêu trên của Luật sư đã không được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét, nên tuyên sửa án sơ thẩm theo yêu cầu bị đơn mặc dù bị đơn không kháng cáo. Theo đó Bản án phúc thẩm quyết định: “Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lân, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2023/DS-ST ngày 23/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán về cách tuyên. 

Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lân về việc đòi lại quyền sử dụng đất 849m2 thuộc thửa 206A (thửa tạm), tờ bản đồ 22 tọa lạc tại Ấp 4, xã La Ngà, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Tâm.

Tuyên bố vô hiệu giấy ủy quyền sử dụng đất ngày 07/3/2011 được Phòng Công chứng số 2 tỉnh Đồng Nai công chứng số 75 quyển số 01TP/CC- SCC/HĐGD ngày 07/3/2011. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Tâm về việc công nhận quyền sử dụng đất.

Công nhận cho bà Nguyễn Thị Tâm được quyền sử dụng đất diện tích 849m2 thuộc thửa 206A (thửa tạm) tờ ban đồ số 22 xã La Ngã, huyện Định Quán. Bà Tâm có quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích đất nêu trên và chấp hành đúng quy hoạch, thu hồi đất của nhà nước.”

Được biết sau khi Bản án phúc thẩm tuyên, bà Nguyễn Thị Lân đã có đơn đề nghị giám đốc thẩm gửi Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Đơn của bà Lân nêu: "Tôi là nguyên đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm, bị đơn không kháng cáo nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai bác kháng cáo của tôi thì phải giữ nguyên “Bản án sơ thẩm” của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, nhưng lại sửa án sơ thẩm theo hướng hoàn toàn có lợi cho bị đơn. Như vậy là có dấu hiệu “Ban hành Bản án trái pháp luật” vi phạm Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

NGUYỄN THÀNH

Từ khoá : lsvn.vn LSVN