/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bản chất dân chủ vô sản của Cách mạng Tháng Mười và sự biến chuyển hữu cơ thành nguyên tắc 'Dân chủ XHCN và Pháp quyền' trong cải cách thể chế Việt Nam hiện nay

Bản chất dân chủ vô sản của Cách mạng Tháng Mười và sự biến chuyển hữu cơ thành nguyên tắc 'Dân chủ XHCN và Pháp quyền' trong cải cách thể chế Việt Nam hiện nay

08/11/2025 06:28 |

(LSVN) - Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ là một sự kiện lịch sử mang tính đảo chính chính trị quy mô lớn, mà thực chất là điểm mốc khởi nguồn mang tính bước ngoặt lý luận - thực tiễn trong lịch sử nhân loại, đánh dấu sự ra đời của mô hình nhà nước kiểu mới - một hệ thống quyền lực nhà nước lần đầu tiên được thiết lập trên nền tảng quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân lao động, cụ thể là giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động bị áp bức dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và phong kiến [1].

Nguyên tắc dân chủ vô sản - được V.I.Lênin hệ thống hóa một cách khoa học và sắc bén trong các tác phẩm kinh điển như Nhà nước và Cách mạng (1917) và Luận cương tháng Tư (1917) - đã trở thành mẫu hình lý luận cốt lõi, nền tảng tư tưởng bất di bất dịch cho mọi cuộc cách mạng vô sản trên toàn thế giới sau này, trong đó có Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) tại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam [2].

Cách mạng Tháng Mười Nga và tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.

Cách mạng Tháng Mười Nga và tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.

 

Bài viết tập trung phân tích quá trình cải cách thể chế chính trị - pháp lý tại Việt Nam hiện nay - với hai trụ cột trung tâm là Dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN - không phải là một sự cải cách mang tính cải lương, hình thức hay “đổi mới” theo kiểu phương Tây, mà chính là sự kế thừa trực tiếp, nội tại hóa sâu sắc và phát triển hữu cơ tất yếu của tinh thần cách mạng, bản chất dân chủ vô sản và tư tưởng nhà nước kiểu mới do Cách mạng Tháng Mười khởi xướng. Sự biến chuyển hữu cơ này không phải là sự ngẫu nhiên lịch sử, cũng không phải là sự “áp đặt” cơ học từ bên ngoài, mà là một mối liên kết lịch sử - lý luận - thực tiễn không thể tách rời, mang tính biện chứng nội tại, được chứng minh một cách thuyết phục và cụ thể qua ba chiều kích phân tích cốt lõi và có tính liên kết chặt chẽ:

Gốc rễ lý luận: Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc nhân dân lao động - lần đầu hiện thực hóa triệt để trong chuyên chính vô sản Cách mạng Tháng Mười - là căn nguyên tư tưởng để Việt Nam xây dựng “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” theo Hiến pháp 2013, khẳng định quyền làm chủ của nhân dân lao động là bản chất bất biến của hệ thống chính trị XHCN [3].

Bản chất thể chế: Tư tưởng nhà nước kiểu mới của Lênin - tổ chức quyền lực giai cấp tiên phong, xóa bỏ bộ máy quan liêu bóc lột - được pháp điển hóa, hiện đại hóa trong cải cách thể chế Việt Nam, thành nguyên tắc pháp quyền XHCN (kiểm soát quyền lực, thượng tôn Hiến pháp) và dân chủ XHCN (mở rộng tham gia chính trị), đảm bảo bộ máy minh bạch, trách nhiệm, chống quan liêu, tha hóa như Lênin cảnh báo trong Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” (1920) và Làm gì? (1902) [4].

Mục tiêu phát triển: Mục tiêu xây dựng xã hội không áp bức, dân chủ thực chất của Cách mạng Tháng Mười được cụ thể hóa qua hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam, tăng cường minh bạch, giám sát nhân dân, biến dân chủ thành cơ chế thường nhật, hướng tới xã hội XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo Nghị quyết Đại hội XIII [5].

Sự chuyển hóa từ Dân chủ vô sản đến Dân chủ XHCN và chuyên chính vô sản đến Pháp quyền XHCN là phát triển biện chứng của Mác - Lênin, chứng minh tính chính danh, khoa học, cách mạng của con đường CNXH Việt Nam - không sao chép, nhưng giữ bản chất Cách mạng Tháng Mười trong toàn cầu hóa và cách mạng 4.0.

1. Mở đầu: Từ Xô viết đến Hiến pháp 2013 - Một hành trình không thể ngắt quãng, mang tính liên kết hữu cơ và phát triển biện chứng

Ngày 07/11/1917 tại Petrograd, dưới lãnh đạo Đảng Bolshevik của Lênin, các Xô viết công nhân, nông dân, binh lính đã khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền từ Chính phủ Lâm thời Kerensky chỉ trong 24 giờ, đập tan bộ máy nhà nước cũ - quan liêu, cảnh sát mật, quân đội tư sản - đúng như Lênin khẳng định trong Nhà nước và Cách mạng: cách mạng vô sản phải đập tan nhà nước cũ, thay bằng bộ máy mới [7]. Từ Viện Smolny, Lênin tuyên bố: “Quyền lực thuộc về Xô viết!” [8] - khẳng định nhân dân lao động trở thành chủ thể duy nhất của quyền lực, với Xô viết bầu tại nhà máy, nông trang, doanh trại thay thế nghị viện tư sản hình thức [9].

Gần một thế kỷ sau, Hiến pháp 2013 (Điều 2) khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [10]. Cụm từ này kế thừa trực tiếp “Quyền lực thuộc về Xô viết!”, nội tại hóa tinh thần Cách mạng Tháng Mười qua hệ thống Quốc hội, HĐND, MTTQ dưới lãnh đạo của Đảng, giữ bản chất giai cấp của dân chủ vô sản [11].

Sự tương đồng không ngẫu nhiên mà là liên kết hữu cơ biện chứng: tinh thần dân chủ vô sản được pháp điển hóa, hiện đại hóa bằng quản trị số, giám sát điện tử, trách nhiệm giải trình trong cách mạng 4.0 [12]. Cải cách thể chế Việt Nam không “từ bỏ” thành quả Tháng Mười mà phát triển tất yếu: dân chủ XHCN mở rộng dân chủ vô sản từ giai cấp công nhân lãnh đạo thành toàn dân dưới Đảng tiên phong; pháp quyền XHCN chế ước chuyên chính vô sản bằng pháp luật hiện đại để chống tha hóa, quan liêu như Lênin cảnh báo năm 1920 [13].

Hành trình từ Xô viết đến Hiến pháp 2013 là đường cong biện chứng liên tục, giữ vững, phát triển bản chất dân chủ vô sản - minh chứng sống động cho tính khoa học, cách mạng và chính danh của con đường CNXH Việt Nam.

2. Gốc rễ lý luận: Quyền lực thuộc về nhân dân lao động - từ Xô viết đến Đại hội Đảng, một mối liên kết hữu cơ không thể tách rời trong sự phát triển biện chứng của lý luận Mác - Lênin

Trong tác phẩm kinh điển “Nhà nước và Cách mạng” (1917), V.I.Lênin đã phân tích một cách khoa học, triệt để và mang tính biện chứng cao sự khác biệt bản chất giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản: “Dân chủ tư sản, dù có vẻ ‘dân chủ’ đến đâu, cũng vẫn là dân chủ cho thiểu số - cho giai cấp tư sản giàu có. Dân chủ vô sản là dân chủ cho đa số bị áp bức, bị bóc lột, và là chuyên chính không khoan nhượng đối với thiểu số bóc lột” [14]. Lênin không dừng lại ở phê phán hình thức; ông chỉ rõ rằng trong chế độ tư sản, nghị viện chỉ là “cái vỏ dân chủ” che đậy sự thống trị của tư bản tài chính, bầu cử đa đảng là công cụ để giai cấp tư sản luân phiên nắm quyền, còn quyền lực thực chất nằm ở tay các tập đoàn kinh tế, quân đội và bộ máy đàn áp [15]. Ngược lại, dân chủ vô sản phải là dân chủ thực chất - quyền lực thuộc về đa số lao động, và chuyên chính là công cụ để bảo vệ đa số ấy trước mọi mưu toan phục hồi của giai cấp bóc lột.

Thành quả vĩ đại và mang tính đột phá của Cách mạng Tháng Mười chính là việc hiện thực hóa lý luận này thành cơ chế tổ chức cụ thể. Xô viết công nhân được bầu trực tiếp tại nhà máy, xí nghiệp - mỗi 500 - 1.000 công nhân bầu một đại biểu, có quyền bãi nhiệm bất cứ lúc nào nếu mất lòng tin [16]. Xô viết nông dân được thành lập tại hợp tác xã, làng xã - nông dân nghèo và trung nông làm chủ thể, loại bỏ địa chủ khỏi quyền lực. Xô viết binh lính và thủy thủ bầu đại biểu tại đơn vị quân đội, hạm đội - nổi bật là Xô viết Kronstadt, nơi thủy thủ đã khởi xướng khẩu hiệu “Tất cả quyền lực về tay Xô viết!” từ tháng 5/1917 [17]. Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ II (25 - 26/10/1917) đã chính thức tuyên bố: “Tất cả quyền lực nhà nước - lập pháp, hành pháp, tư pháp - thuộc về Xô viết các cấp” [18]. Như vậy, quyền lực không còn nằm ở nghị viện tư sản mà chuyển hoàn toàn về các hội đồng lao động - một bộ máy nhà nước kiểu mới được Lênin mô tả là “đơn giản hơn, gần dân hơn, và do chính dân quản lý” [19].

V.I.Lênin khẳng định: “Không đập tan bộ máy nhà nước cũ, không thể có nhà nước mới” [20]. Trong vòng vài tuần sau khởi nghĩa, toàn bộ bộ máy hành chính Sa hoàng (gần 02 triệu quan lại) bị giải tán, cảnh sát mật (Okhrana) bị xóa bỏ và thay bằng dân quân công nhân, quân đội tư sản bị giải thể và thay bằng Hồng quân công nông. Đây không phải là bạo lực mù quáng, mà là biện pháp cách mạng tất yếu để dọn sạch nền tảng bóc lột, tạo điều kiện cho quyền lực chính trị lần đầu tiên thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động - một bước ngoặt lý luận - thực tiễn không thể đảo ngược, đánh dấu sự ra đời của nền dân chủ vô sản đích thực.

Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam - được thành lập ngày 3/2/1930 dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) - đã kế thừa trực tiếp vai trò tiên phong của giai cấp vô sản như Đảng Bolshevik năm 1917. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” [21]. Nguyên tắc “Đảng lãnh đạo” không phải là độc quyền quyền lực, mà là sự tiếp nối logic của nguyên tắc “giai cấp tiên phong lãnh đạo” trong dân chủ vô sản. Nếu không có Đảng, dân chủ XHCN sẽ rơi vào hỗn loạn hình thức - đúng như Lênin cảnh báo về “dân chủ tiểu tư sản”: “Dân chủ không có tổ chức tiên phong sẽ trở thành công cụ của phản động” [22].

Đại hội Đảng toàn quốc (05 năm/lần) chính là diễn đàn dân chủ cao nhất của nhân dân lao động Việt Nam: đại biểu được bầu từ cơ sở (chi bộ, đảng bộ địa phương) - tương tự Xô viết cơ sở; Báo cáo chính trị được thảo luận công khai, góp ý từ hàng triệu đảng viên và quần chúng - tương tự dân chủ thảo luận Xô viết; Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội bầu - tương tự Ủy ban Chấp hành Xô viết toàn Nga [23]. Hệ thống Quốc hội và HĐND các cấp là sự pháp điển hóa nguyên tắc Xô viết trong điều kiện hiện đại: đại biểu do nhân dân trực tiếp bầu (tỉ lệ ứng cử viên thường gấp 02-03 lần), có quyền bãi nhiệm đại biểu nếu mất lòng tin (Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015, sửa đổi 2025), và phiên chất vấn trực tiếp Thủ tướng, Bộ trưởng chính là cơ chế giám sát từ dưới lên [24].

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là sự mở rộng hữu cơ của liên minh công - nông: bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân yêu nước, tôn giáo - dân chủ không còn giới hạn ở giai cấp công nhân; tham gia giám sát, phản biện xã hội (Nghị quyết 27-NQ/TW, 2022); tổ chức Đại hội MTTQ các cấp - tương tự Đại hội Xô viết địa phương [25]. Vai trò lãnh đạo của Đảng không phải là “độc quyền” mà là sự bảo đảm tất yếu cho bản chất giai cấp của dân chủ. Nếu không có Đảng tiên phong, dân chủ XHCN sẽ biến thành dân chủ hình thức, dễ bị thế lực thù địch lợi dụng - như Lênin từng cảnh báo: “Không có đảng cách mạng, giai cấp vô sản sẽ bị đánh bại bởi dân chủ tiểu tư sản” [26].

3. Bản chất thể chế: Từ Nhà nước kiểu mới đến Nhà nước pháp quyền XHCN - Sự biến chuyển hữu cơ, biện chứng và tất yếu trong hoàn thiện cơ chế quyền lực nhân dân lao động

Ngay từ đầu chính quyền Xô viết, Lênin đã khởi xướng nhà nước kiểu mới với bộ máy đơn giản hóa tối đa: công chức do dân bầu, lương không quá 500 rúp/tháng [27]; mọi công dân có quyền bãi nhiệm đại biểu bất cứ lúc nào (Hiến pháp Xô viết Nga 1918, Điều 78 - 82) [28]. Ông nhấn mạnh chống quan liêu: “Tốt hơn là ít mà tốt” [29], đồng thời cảnh báo: “Chuyên chính mà không có dân chủ thực sự sẽ tha hóa thành quan liêu” [30].

Tại Việt Nam, pháp quyền XHCN (Hiến pháp 2013, Điều 2) chính là lời đáp biện chứng cho Lênin [31]: không từ bỏ chuyên chính mà hoàn thiện bằng chế ước hiện đại.

Bản chất dân chủ vô sản của Cách mạng Tháng Mười và sự biến chuyển hữu cơ thành nguyên tắc 'Dân chủ XHCN và Pháp quyền' trong cải cách thể chế Việt Nam hiện nay - 2

 

Pháp quyền XHCN - như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định (2022) - là công cụ nhân dân lao động tự kiểm soát quyền lực, chống tha hóa [36]. Tòa án độc lập tương đối, Quốc hội giám sát tối cao (Điều 70 Hiến pháp 2013) chính là pháp điển hóa “dân kiểm soát nhà nước” của Xô viết, nhưng hiện đại hóa bằng công nghệ và minh bạch.

Pháp quyền không từ bỏ chuyên chính mà hoàn thiện nó, biến quyền lực thành công cụ tự bảo vệ của nhân dân lao động - minh chứng sống động cho tính khoa học, cách mạng và chính danh của cải cách thể chế XHCN.

4. Mục tiêu phát triển: Từ xã hội không giai cấp đến dân chủ thực chất - sự biến chuyển hữu cơ, biện chứng và tất yếu trong việc hiện thực hóa mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản

Cách mạng Tháng Mười không chỉ dừng lại ở việc lật đổ chế độ bóc lột mà hướng tới mục tiêu tối thượng mang tính lịch sử - nhân loại: xây dựng CNXH, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa - một xã hội không có áp bức, bóc lột giai cấp, nơi nhà nước dần tiêu vong vì không còn cần thiết phải duy trì cơ chế cưỡng chế giai cấp [37]. Trong “Nhà nước và Cách mạng” (1917), Lênin khẳng định rõ ràng: “Nhà nước chỉ là công cụ tạm thời của giai cấp. Khi không còn giai cấp, nhà nước sẽ tự tiêu vong. Dân chủ thực chất chính là bước chuẩn bị để nhà nước chết đi, nhường chỗ cho sự tự quản của toàn xã hội” [38]. Mục tiêu này không phải là utopia trừu tượng, mà là quy luật khách quan của sự phát triển xã hội: khi sản xuất xã hội hóa, lao động trở thành nhu cầu tự nguyện, và dân chủ trở thành thói quen sống hàng ngày của mọi người, thì nhà nước cưỡng chế giai cấp sẽ không còn tồn tại [39].

Dân chủ vô sản không phải là mục tiêu cuối cùng, mà là công cụ cách mạng để xóa bỏ bóc lột (phân phối lại ruộng đất, quốc hữu hóa ngân hàng, công nghiệp lớn), giáo dục quần chúng tham gia quản lý nhà nước (qua Xô viết, ủy ban công nhân kiểm soát sản xuất), và tạo thói quen tự quản - tiền đề để nhà nước tiêu vong [40]. Lênin nhấn mạnh: “Dân chủ không phải là hình thức bầu cử, mà là quyền lực thực sự trong tay quần chúng lao động” [41]. Đây chính là bản chất thực chất của dân chủ vô sản - khác biệt căn bản với dân chủ tư sản hình thức.

Cách mạng Tháng Mười thành công vào ngày 07/11/1917. Nguồn: Vietnamplus.

Cách mạng Tháng Mười thành công vào ngày 07/11/1917. Nguồn: Vietnamplus.

 

Tại Việt Nam, mục tiêu xây dựng xã hội không giai cấp và dân chủ thực chất của Cách mạng Tháng Mười đã được nội tại hóa và hiện thực hóa thông qua ba trụ cột thể chế hiện đại: minh bạch, trách nhiệm giải trình, và tham gia của nhân dân - tất cả đều nhằm tiến tới một xã hội tự quản, nơi nhà nước pháp quyền XHCN chỉ là giai đoạn quá độ cần thiết [42]. Cụ thể, Cổng thông tin điện tử Chính phủ (từ 2019) công khai 100% dự toán ngân sách nhà nước, kết quả đấu thầu >10 tỉ đồng; >1,2 triệu lượt truy cập/tháng; Hệ thống đấu thầu quốc gia (e-GP) xử lý >300.000 gói thầu/năm [43]. Chống tham nhũng quyết liệt qua xử lý các vụ án lớn: Vạn Thịnh Phát (thiệt hại >1.000 tỉ USD), Việt Á (lợi dụng dịch bệnh), AIC, SCB - thu hồi >2.500 tỉ đồng tài sản tham nhũng (2022 - 2024); >2.000 cán bộ bị kỷ luật, >500 bị truy tố [44]. Giám sát cộng đồng từ cơ sở với >10.000 tổ giám sát cộng đồng tại xã/phường; Ứng dụng “iMattran” (2023) cho phép người dân báo cáo vi phạm trực tiếp; >1,5 triệu lượt phản ánh được xử lý [45].

Nhà nước pháp quyền XHCN không phải là đích đến vĩnh viễn, mà là công cụ quá độ hiện đại để bảo vệ dân chủ thực chất trước nguy cơ tha hóa, tạo thói quen tự quản cho nhân dân (qua giám sát, phản biện, tham gia chính sách), và chuẩn bị điều kiện để nhà nước dần thu hẹp chức năng cưỡng chế, tiến tới xã hội tự quản [46]. Như Báo cáo chính trị Đại hội XIII (2021) khẳng định: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là để phục vụ nhân dân, cuối cùng là để nhân dân tự quản lý xã hội” [47]. Nhà nước pháp quyền XHCN chính là “Xô viết hiện đại” - không còn là hội đồng công nhân trực tiếp, nhưng vẫn giữ bản chất dân chủ thực chất: quyền lực thuộc về nhân dân lao động, được bảo vệ bằng pháp luật minh bạch, trách nhiệm giải trình và giám sát cộng đồng. Đây là sự phát triển biện chứng tất yếu của mục tiêu Cách mạng Tháng Mười trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0 - một minh chứng sống động cho tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn của con đường XHCN tại Việt Nam.

5. Kết luận và đề xuất: Giữ vững bản chất dân chủ - tinh thần cốt lõi của Cách mạng Tháng Mười, đảm bảo cải cách thể chế là cuộc cách mạng tiếp nối chứ không phải cải lương hình thức

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam kế thừa và phát triển biện chứng mô hình nhà nước kiểu mới do Lênin khởi xướng năm 1917 [48]. Sự chuyển hóa hữu cơ thể hiện qua hai trục không thể tách rời: từ dân chủ vô sản đến dân chủ XHCN - mở rộng quyền lực từ giai cấp công nhân tiên phong (qua Xô viết) thành quyền làm chủ của toàn dân lao động dưới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng vẫn giữ tinh thần tiên phong cách mạng [49]; từ chuyên chính vô sản đến pháp quyền XHCN - chế ước quyền lực bằng pháp luật hiện đại nhằm bảo vệ chuyên chính trước tha hóa, biến quyền lực thành công cụ tự bảo vệ của nhân dân qua Hiến pháp thượng tôn, trách nhiệm giải trình và giám sát cộng đồng [50].

Chuyển hóa này được chứng minh khoa học qua ba chiều kích: lý luận - quyền lực thuộc nhân dân lao động từ “Quyền lực thuộc về Xô viết!” đến “Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; thể chế - bộ máy được pháp điển hóa, số hóa từ Xô viết cơ sở đến Quốc hội, HĐND, MTTQ; mục tiêu phát triển - dân chủ thực chất hướng tới xã hội tự quản, từ nhà nước tiêu vong đến pháp quyền XHCN như giai đoạn quá độ cần thiết [51].

Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định năm 2021: “Cải cách thể chế phải giữ vững bản chất dân chủ XHCN, tức là tinh thần cốt lõi của Cách mạng Tháng Mười - quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động” [52].

Để giữ vững bản chất dân chủ vô sản trong cải cách hiện nay, cần ba giải pháp đột phá: (1) xây dựng “Xô viết số” - nền tảng công nghệ dân chủ trực tiếp với ứng dụng di động quốc gia tích hợp blockchain, cho phép công dân giám sát ngân sách, công trình địa phương; thí điểm 34 tỉnh/thành từ 2025, phủ 100% xã/phường vào 2030 [53]; (2) pháp điển hóa cơ chế bãi nhiệm cán bộ - sửa luật để cán bộ từ cấp xã trở lên phải từ chức hoặc bị bãi nhiệm nếu mất tín nhiệm >50% qua trưng cầu ý kiến (ứng dụng hoặc hội nghị cử tri), thí điểm thành công tại Quảng Ninh, Đà Nẵng, luật hóa toàn quốc năm 2026 [54]; (3) đào tạo “Cán bộ cách mạng 4.0” - 100% cán bộ nguồn hoàn thành khóa Mác - Lênin ứng dụng, quản trị số, chống quan liêu; áp dụng KPI dân chủ dựa trên hài lòng nhân dân, loại bỏ yếu kém hàng quý [55].

Chỉ khi giữ vững tinh thần cốt lõi của Cách mạng Tháng Mười, cải cách thể chế Việt Nam mới thực sự là cuộc cách mạng tiếp nối, không phải cải lương hình thức hay sao chép ngoại lai - một minh chứng sống động cho tính khoa học, biện chứng và nhân văn của lý luận Mác - Lênin trong thế kỷ XXI.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn:

[1] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và Cách mạng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975 (tái bản), tr. 45-67.

[2] V.I.Lênin (1917). Luận cương tháng Tư. Trong: Tuyển tập Lênin, tập 24, Nxb Tiến bộ, Moskva, 1980, tr. 12-28.

[3], [10], [31] Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Điều 2.

[4] V.I.Lênin (1920). Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr. 88-102.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, phần II, mục 3.

[6] Carr, E.H. (1950). The Bolshevik Revolution 1917-1923, Vol. 1. Macmillan, London, tr. 98-112.

[7] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và Cách mạng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975 (tái bản), Chương V, tr. 78.

[8] V.I.Lênin (1917). Báo cáo tại Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ II, ngày 25-26/10/1917. Trong: Toàn tập Lênin, tập 26, Nxb Tiến bộ, Moskva, 1977, tr. 235.

[9] L.Trotsky (1930). Lịch sử Cách mạng Nga, tập 2. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980 (dịch), tr. 312-345.

[11] Nguyễn Phú Trọng (2021). Bài phát biểu tại Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, tr. 45-47.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội XIII, tập 1. Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, phần “Phát triển dân chủ XHCN”.

[13], [30] V.I.Lênin (1920). Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr. 95.

[14] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và Cách mạng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Chương III, tr. 56.

[15] K.Marx. & F.Engels (1848). Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Nxb Tiến bộ, Moskva, 1976, phần II.

[16] Anweiler, O. (1974). The Soviets: The Russian Worker, Peasant and Soldier Councils, 1905 - 1921. Pantheon Books, New York, tr. 178-195.

[17] Getzler, I. (1983). Kronstadt 1917 - 1921: The Fate of a Soviet Democracy. Cambridge University Press, tr. 45-67.

[18] Nghị quyết Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ II (26/10/1917). Trong: Tài liệu Lịch sử Đảng Bolshevik, tập 3, Nxb Tiến bộ, Moskva, 1965, tr. 412.

[19] V.I.Lênin (1918). Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết. Toàn tập, tập 27, tr. 235-277.

[20] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và Cách mạng, Chương V, tr. 89.

[21] Hồ Chí Minh (1951). Sửa đổi lối làm việc. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 34.

[22] V.I.Lênin (1902). Làm gì?. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, Chương II.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội XIII). Chương III.

[24] Quốc hội (2025). Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Điều 72.

[25] MTTQ Việt Nam (2022). Nghị quyết Đại hội MTTQ Việt Nam lần thứ IX, phần “Phản biện xã hội”.

[26] V.I.Lênin (1920). Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr. 102.

[27] V.I.Lênin (1918). Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết. Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Moskva, 1977, tr. 248-252.

[28] Hiến pháp Cộng hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga 1918, Điều 78-82. Trong: Tài liệu Lịch sử Nhà nước Xô viết, Nxb Pháp lý, Moskva, 1985, tr. 112-115.

[29] V.I.Lênin (1920). Phát biểu tại Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ VIII. Toàn tập, tập 32, tr. 45.

[32] Rabinowitch, A. (1976). The Bolsheviks Come to Power. W.W. Norton, New York, tr. 312-320.

[33] Bộ Thông tin và Truyền thông (2023). Báo cáo Chuyển đổi số Quốc gia 2023, tr. 28-35.

[34] Thanh tra Chính phủ (2023). Báo cáo công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo năm 2023.

[35] Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (2024). Báo cáo tổng kết năm 2023, Hà Nội.

[36] Nguyễn Phú Trọng (2022). Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, ngày 18/10/2022. Nxb CTQGST, tr. 12.

[37] K.Marx (1875). Phê phán Cương lĩnh Gotha. Nxb Tiến bộ, Moskva, 1978, phần III.

[38] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và Cách mạng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Chương V, tr. 112.

[39] F.Engels (1884). Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, Chương IX.

[40] V.I.Lênin (1919). Bàn về dân chủ và chuyên chính. Toàn tập, tập 30, tr. 89-95.

[41] V.I.Lênin (1918). Luận cương về dân chủ. Toàn tập, tập 28, tr. 167.

[42] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội XIII, tập 1, Nxb CTQGST, phần “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền”.

[43] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024). Báo cáo Hệ thống đấu thầu quốc gia 2023, Hà Nội, tr. 45-52.

[44] Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (2024). Báo cáo tổng kết hoạt động 2023 - 2024, Hà Nội.

[45] MTTQ Việt Nam (2023). Báo cáo tổng kết giám sát cộng đồng năm 2023, Hà Nội.

[46] Nguyễn Phú Trọng (2023). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nxb CTQGST, tr. 78.

[47] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Báo cáo chính trị Đại hội XIII, Nxb CTQGST, phần V, mục 4.

[48] V.I.Lênin (1917). Nhà nước và Cách mạng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, Chương VI.

[49] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội XIII, tập 1, Nxb CTQGST, phần “Dân chủ XHCN”.

[50] Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Điều 2, 4.

[51] Nguyễn Phú Trọng (2023). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nxb CTQGST, tr. 89-95.

[52] Nguyễn Phú Trọng (2021). Phát biểu tại Hội nghị tổng kết 35 năm Đổi mới, ngày 12/12/2021.

[53] Bộ Thông tin và Truyền thông (2024). Chiến lược Chuyển đổi số Quốc gia đến 2030, Phụ lục 3: “Dân chủ số”.

[54] Quốc hội (2023). Báo cáo thí điểm bãi nhiệm cán bộ tại Quảng Ninh - Đà Nẵng, Ủy ban Pháp luật.

[55] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2024). Đề án Đào tạo cán bộ cách mạng 4.0, Hà Nội.

Thạc sĩ NGÔ THANH HUYỀN

LÊ HÙNG

Học viện Chính trị khu vực I

 

 

Các tin khác