/ Trao đổi - Ý kiến
/ Bàn về công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa

Bàn về công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa

06/07/2025 07:43 |

(LSVN) - Tai nạn giao thông đường thủy nội địa là tai nạn xảy ra trên đường thủy nội địa, trong vùng nước cảng, bến thủy nội địa do đâm va hoặc sự cố liên quan đến phương tiện, tàu biển, tàu cá gây thiệt hại về người, tài sản, cản trở hoạt động giao thông hoặc gây ô nhiễm môi trường. Đường thủy nội địa là luồng, âu tàu, các công trình đưa phương tiện qua đập, thác trên sông, kênh, rạch hoặc luồng trên hồ, đầm, phá, vụng, vịnh, ven bờ biển, ra đảo, nối các đảo thuộc nội thuỷ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức quản lý, khai thác giao thông vận tải

Hiện nay, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới những vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa là do các phương tiện đâm, va vào nhau hoặc va chạm với chướng ngại vật. Để làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tai nạn thì hoạt động khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa hết sức quan trọng. 

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

1. Khó khăn, vướng mắc trong công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa

Thực tiễn cho thấy, hoạt động khám nghiệm hiện trường không chỉ hỗ trợ cho công tác điều tra, giải quyết vụ việc kịp thời mà còn giúp xác định những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tai nạn. Đây vừa là những cơ sở khoa học, vừa là căn cứ thực tiễn quan trọng, từ đó giúp cơ quan chức năng đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả trong giảm thiểu tai nạn. Trong các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do các phương tiện đâm, va gây ra, khám nghiệm hiện trường cũng là căn cứ pháp lý quan trọng nhằm xác định chính xác lỗi của các bên tham gia, góp phần xử lý đúng người, đúng tội. Trong nhiều vụ việc, kết quả khám nghiệm hiện trường còn giúp lực lượng chức năng truy bắt người và phương tiện gây tai nạn bỏ trốn khỏi hiện trường. 

Tại khoản 4 Điều 11 Thông tư 64/2020/TT-BCA quy định về khám phương tiện trong vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa như sau:

- Đo kích thước chính của phương tiện gồm: Chiều dài lớn nhất, chiều rộng lớn nhất, chiều cao, chiều chìm, chiều cao mạn khô của phương tiện thủy nội địa;

- Đánh giá kết cấu, tình trạng của thân, vỏ phương tiện gồm: Khung xương, vỏ, boong, ca bin, vách ngăn, hầm hàng, sống lái, sống mũi, sống đáy;

- Khám hệ thống thiết bị kỹ thuật của phương tiện: Hệ thống động lực, lái, neo, cứu sinh, cứu hỏa, âm, tín hiệu (âm thanh và ánh sáng), cứu sinh, cứu đắm, thiết bị hàng hải (ra đa, thiết bị ghi nhận hành trình (GPS), thiết bị nhận dạng tàu (AIS), hải đồ điện tử (nếu có), van thông sông;

- Tập trung khám các bộ phận, vị trí có nhiều khả năng là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông, xác định vị trí đâm va và điểm đâm va đầu tiên trên phương tiện;

- Kiểm tra, xem xét tỉ mỉ vị trí, chiều hướng và cơ chế hình thành dấu vết, kích thước những dấu vết để lại trên phương tiện (loại trừ những dấu vết phát sinh trong quá trình cứu chữa, trục vớt phương tiện);

- Đo, chụp ảnh vị trí, kích thước dấu vết (có đặt thước tỉ lệ); thu lượm dấu vết, vật mang dấu vết, lấy mẫu so sánh (nếu thấy cần thiết), bảo quản theo đúng quy định.

Tuy vậy, hoạt động khám nghiệm đối với loại hiện trường này trong thực tiễn cũng gặp không ít những khó khăn, hạn chế ảnh hưởng tới hiệu quả công tác. Phần lớn những hạn chế, khó khăn này xuất phát từ đặc thù của quá trình khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ do phương tiện đâm, va gây ra. 

Một là, giai đoạn tiếp nhận thông tin, chuẩn bị tổ chức khám nghiệm hiện trường.

Khó khăn trong tiếp cận hiện trường các vụ tai nạn đường giao thông thuỷ nội địa do phương tiện đâm, va gây ra: Điều kiện sông nước, ảnh hưởng thời tiết, khó khăn trong trao đổi thông tin về vụ việc ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công tác khám nghiệm. Trong nhiều vụ việc, phương tiện va chạm bị chìm, đắm, không thể tiếp cận, thu thập, nghiên cứu, đo đạc dấu vết nếu không tổ chức trục vớt, lai dắt phương tiện về bến cảng, xưởng sửa chữa. Với đặc thù hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, nhiều tuyến đường thủy ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, xa khu dân cư, hệ thống thông tin liên lạc thiếu thốn... do đó, không kịp thời phát hiện các vụ tai nạn xảy ra, dẫn đến những biến đổi hoặc mất dấu vết, vật chứng liên quan.

Khó xác định thẩm quyền điều tra, giải quyết vụ việc từ những thông tin ban đầu: Với sự gia tăng nhanh của những phương tiện vận tải đường thủy nội địa, trong đó có nhiều phương tiện siêu trường, siêu trọng, chở quá khổ, quá tải, khi xảy ra tai nạn thường để lại những hậu quả rất lớn về người và tài sản. Sau va chạm, phương tiện bị chìm, đắm, tài sản khó có thể định lượng tại thời điểm ban đầu, do đó, chưa xác định chính xác tính chất nghiêm trọng của vụ việc. Với những phương tiện chuyên chở khác, công tác quản lý còn hạn chế, hầu như không thể nắm được chính xác số người trên phương tiện tại thời điểm xảy ra tai nạn, do đó, khó xác định số người chết, mất tích trong vụ tai nạn. Thực tiễn cho thấy, việc xác định tính chất vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa từ những thông tin ban đầu thường không đầy đủ, chưa thể đánh giá hết thiệt hại gây ra, do đó việc phân công, phân cấp thẩm quyền điều tra ban đầu có thể chưa thực sự hợp lý, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác điều tra, giải quyết.

Thiếu những thông tin ban đầu hỗ trợ cho hoạt động khám nghiệm hiện trường: Phần lớn các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ xảy ra trên những tuyến, đoạn sông, luồng lạch ít phương tiện lưu thông, cách xa khu dân cư, khó xác định được người chứng kiến vụ việc. Các phương tiện thuỷ nội địa di chuyển dọc theo các tuyến sông, kênh, rạch phần lớn không được lắp đặt camera hành trình. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp có phương tiện đường thuỷ cùng lưu thông hoặc người dân biết thông tin vụ việc, nhưng do tâm lý sợ phiền hà, không ở lại cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng. Do đó, công tác thu thập thông tin, tài liệu ban đầu hỗ trợ cho công tác khám nghiệm hiện trường gặp nhiều khó khăn.

Hai là, giai đoạn tổ chức khám nghiệm hiện trường, thu thập và đánh giá hệ thống dấu vết,vật chứng tại hiện trường.

Giai đoạn này ảnh hưởng bởi quá trình triển khai các biện pháp khẩn cấp tại hiện trường. Phần lớn những vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do các phương tiện đâm, va gây ra thường để lại những thiệt hại lớn về người, tài sản, nhiều vụ việc gây chìm, đắm phương tiện, làm nhiều người chết hoặc mất tích. Việc triển khai ngay các biện pháp khẩn cấp nhằm cứu chữa người, phương tiện, hàng hoá tại hiện trường luôn là yêu cầu mang tính cấp bách, được tiến hành khẩn trương nhằm hạn chế những thiệt hại có thể phát sinh. Ngoài ra, những tác động khách quan do thời tiết (bão, lũ, sương mù), đặc thù địa hình (vùng sâu, vùng xa, lưu tốc dòng chảy lớn, độ sâu) cũng gây khó khăn trong việc cấp cứu người, đưa phương tiện chuyên dụng vào trục vớt, lai dắt phương tiện bị đắm, hỏng. Quá trình tiến hành các biện pháp khẩn cấp tại hiện trường có thể làm mất, xoá dấu vết, vật chứng hoặc tạo ra những phản ánh vật chất mới, gây khó khăn cho công tác điều tra tại hiện trường.

Khó xác định chính xác phạm vi hiện trường và điểm va chạm đầu tiên để phục vụ đo đạc hiện trường: Đặc thù hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do các phương tiện đâm, va gây ra thường có phạm vi rộng. Sau khi xảy ra va chạm, do quán tính, dòng nước và những điều kiện tự nhiên tác động, dấu vết, vật chứng ở hiện trường có thể tồn tại rải rác, thường chìm dưới mặt nước, gây khó khăn cho việc phát hiện, đo đạc, ghi nhận dấu vết. Vị trí của phương tiện, các dấu vết, vật chứng phụ thuộc vào chiều hướng, vận tốc di chuyển, trọng lượng các phương tiện, tác động của dòng chảy, thuỷ triều, hướng gió... Nhiều vụ việc phương tiện bị chìm, đắm có thể bị trôi dạt cách xa vị trí va chạm, gây khó khăn trong xác định chính xác vị trí xảy ra va chạm đầu tiên. Tại hiện trường, việc đo đạc, ghi nhận dấu vết, vật chứng trong điều kiện sông nước gặp nhiều hạn chế, đặc biệt hệ thống dấu vết thường xuất hiện phía ngoài mạn hoặc mũi phương tiện theo hướng di chuyển. Để có thể đo đạc chính xác, cần trục vớt, lai dắt phương tiện về cảng hoặc xưởng sửa chữa với sự hỗ trợ của những cán bộ có chuyên môn về các thông số kỹ thuật của phương tiện.

Khó xác định mốc cố định phục vụ khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn đường thuỷ nội địa do phương tiện đâm, va gây ra: Mốc cố định trong khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa thường được lựa chọn là: Nhà dân hai bên bờ, các biển chỉ dẫn, biển cảnh báo luồng lạch, các công trình dân sinh ở gần khu vực xảy ra tai nạn. Với sự chênh lệch độ cao, khác biệt về môi trường đất và nước, đồng thời, có khoảng cách tương đối xa so với vị trí các dấu vết, vật chứng cần đo đạc dẫn đến việc đo đạc gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, những hạn chế về hệ thống trang thiết bị chuyên dụng, hiện đại phục vụ định vị, đo đạc (độ sâu nước, dòng chảy, lưu tốc của gió,...) ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động khám nghiệm. Thực tiễn cho thấy, phần lớn việc đo đạc tại hiện trường được tiến hành bằng thước dây, nhiều khoảng cách phải đo mang tính ước lượng, thiếu chính xác.

Hệ thống dấu vết trong các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do các phương tiện đâm, va gây ra thường là những dấu vết cơ học (trượt, xước, gãy, lõm, thủng). Với hệ thống dấu vết tồn tại chủ yếu dưới dạng dấu vết cơ học, là những loại dấu vết hình sự phức tạp, gây không ít khó khăn trong việc tổ chức nghiên cứu dấu vết tại hiện trường, phục vụ công tác điều tra. Các vụ tai nạn này xảy ra do các phương tiện va chạm với nhau hoặc tự va chạm vào vật cản, chướng ngại vật gây ra, do đó, hình thành và tồn tại chủ yếu trên thân vỏ khu vực mạn, mũi của phương tiện, dễ bị tác động, biến đổi bởi nhiều yếu tố khách quan như điều kiện môi trường, thời tiết. Bên cạnh đó, quá trình tiến hành các biện pháp cấp bách tại hiện trường như: Tìm kiếm, cứu chữa người bị nạn, trục vớt, di chuyển, lai dắt phương tiện về bến, bãi có thể phát sinh những dấu vết mới hoặc làm mờ, mất dấu vết ban đầu.

Nhìn chung, hoạt động khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do các phương tiện đâm, va gây ra thường gặp phải không ít những khó khăn mang tính đặc thù, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều tra, giải quyết vụ việc. Khảo sát lý luận và thực tiễn cho thấy, những nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế nêu trên phải kể đến như: Hệ thống văn bản, tài liệu hướng dẫn liên quan đến công tác khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa còn ít, chưa đồng bộ; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa còn nhiều hạn chế; thiếu đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường phục vụ điều tra các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ; công tác phối hợp lực lượng trong tổ chức khám nghiệm hiện trường phục vụ công tác điều tra còn nhiều bất cập; cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do phương tiện đâm, va gây ra còn mang tính hình thức, kém hiệu quả.

2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa

Một là, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của lực lượng trực tiếp làm công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa.

Đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sỹ về ý thức trách nhiệm trong thực hiện công tác khám nghiệm hiện trường, thu thập, đánh giá dấu vết trong các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa; khắc phục các biểu hiện tiêu cực, ngại khó, ngại khổ, sợ nguy hiểm trong triển khai công tác. Các cán bộ chuyên môn trực tiếp tiến hành khám nghiệm cần chủ động nghiên cứu về kỹ thuật phương tiện, đặc thù những tuyến đường thuỷ trên địa bàn, từ đó giúp nâng cao trình độ, năng lực giải quyết khi xảy ra tai nạn. Lựa chọn những cán bộ tham gia có kinh nghiệm, có chuyên môn phù hợp, hiểu được đặc điểm của từng loại hiện trường, quy luật hình thành và tồn tại của hệ thống dấu vết đặc trưng tại hiện trường

Hai là, bảo đảm trang thiết bị, phương tiện, đặc biệt là các phương tiện chuyên dụng phục vụ hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa.

Nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác khám nghiệm hiện trường, đặc biệt trong phát triển phương tiện đo lường, định vị, thu mẫu phục vụ công tác điều tra; hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện phải gắn liền với yêu cầu phù hợp với điều kiện đặc thù công tác khám nghiệm, nghiên cứu dấu vết trong các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa; đề xuất các cấp lãnh đạo trong ngành Công an, chính quyền địa phương trong đầu tư, hỗ trợ các phương tiện cần thiết phục vụ thu thập, nghiên cứu dấu vết tại hiện trường. Bên cạnh đó, cần chủ động có kế hoạch đảm bảo chế độ chính sách cho lực lượng khám nghiệm hiện trường, đặc biệt là chế độ hỗ trợ đặc thù trong các vụ việc phức tạp giúp cán bộ, chiến sỹ yên tâm công tác. Các đơn vị địa phương, đặc biệt là lực lượng kỹ thuật hình sự, lực lượng Cảnh sát giao thông ngoài việc bảo đảm đầy đủ lực lượng, phương tiện ứng trực 24/24, cần quản lý tốt hệ thống phương tiện, định kỳ kiểm tra, bảo trì nhằm bảo đảm khả năng vận hành khi có yêu cầu khám nghiệm.

Ba là, tổ chức hiệu quả công tác bảo vệ hiện trường, phân luồng giao thông bảo đảm an toàn tuyệt đối cho lực lượng khám nghiệm. Chủ động phát hiện, ngăn chặn những tác động tiêu cực, gây biến đổi hệ thống dấu vết, vật chứng tại hiện trường. Thiết lập hệ thống cảnh báo, chướng ngại vật chắn, đèn cảnh báo, yêu cầu các phương tiện chuyển hướng hành trình hoặc giảm tốc độ, di chuyển theo hướng dẫn của lực lượng chức năng, tránh gây nguy hiểm cho lực lượng khám nghiệm, cũng như làm ảnh hưởng tới hệ thống dấu vết, vật chứng tại hiện trường.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, nghiên cứu dấu vết, vật chứng tại hiện trường.

Các cơ quan, đơn vị tham gia tự ý thức trách nhiệm trong tiến hành kiểm tra và tự kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể khác trong quá trình tiến hành khám nghiệm; phát huy tốt vai trò kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường của Kiểm sát viên tại hiện trường; định kỳ phối hợp tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ với ngành Kiểm sát về khám nghiệm hiện trường nói chung, hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa do các phương tiện đâm, va gây ra nói riêng. Nội dung tập huấn tập trung vào các chuyên đề như: Phân loại hiện trường tai nạn đường thuỷ; tổ chức khám nghiệm; thu thập, đánh giá dấu vết hình sự phổ biến trong các vụ tai nạn đường thuỷ nội địa; phương pháp thu mẫu so sánh... Kiểm sát viên và các lực lượng tham gia chủ động nghiên cứu, nắm chắc quy trình tiến hành các hoạt động trong khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa; tổ chức sơ kết, tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa điển hình và rút ra những kinh nghiệm giúp nâng cao hiệu quả công tác này.

Năm là, chủ động xác định những công việc cần triển khai khi tiếp cận hiện trường vụ tai nạn. Nghiên cứu, xác định phương pháp, chiến thuật tổ chức khám nghiệm hiện trường phù hợp với đặc thù hiện trường vụ tai nạn giao thông đường thủy nội địa. Khi tiếp cận hiện trường cần xác định thời điểm xảy ra tai nạn, tình trạng hiện trường và điều kiện ngoại cảnh, yếu tố tác động: hướng di chuyển của các phương tiện; khả năng quan sát, hướng gió, độ sâu, độ rộng khu vực xảy ra va chạm… Chủ động phối hợp, trao đổi thông tin giữa các lực lượng trước khi khám nghiệm hiện trường. Thường xuyên trao đổi, cập nhật thông tin hỗ trợ công tác bảo vệ và khám nghiệm hiện trường. Trường hợp phương tiện sau gây tai nạn bỏ trốn tại hiện trường, lực lượng khám nghiệm cần chủ động phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ, lực lượng công an cung cấp thông tin truy tìm phương tiện gây tai nạn, nhanh chóng đánh giá hệ thống dấu vết, vật chứng tại hiện trường.

NGUYỄN THỊ YẾN HOA
Tòa án Quân sự Quân khu 1

Các tin khác