/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bàn về đề xuất không xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng trong dự thảo Nghi quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ

Bàn về đề xuất không xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng trong dự thảo Nghi quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ

30/11/2025 08:38 |

(LSVN) - Trong bối cảnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam đạt nhiều kết quả mang tính bước ngoặt, Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) đối với các tội phạm tham nhũng và chức vụ, do Tòa án nhân dân Tối cao xây dựng, đã thu hút sự quan tâm sâu rộng của giới khoa học pháp lý và công chúng.

1. Đặt vấn đề

Vấn đề gây tranh luận chính là khoản 4 Điều 5, trong đó đề xuất cơ chế “không truy cứu trách nhiệm hình sự” nếu người phạm tội đáp ứng đồng thời ba điều kiện. Mặc dù, quy định này được giải thích nhằm tạo cơ chế xử lý linh hoạt các sai phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, nhưng nó lại tiềm ẩn nguy cơ bảo vệ lợi ích nhóm, làm giảm hiệu lực răn đe của pháp luật. Bài viết này tập trung phân tích những bất cập cơ bản của khoản 4 Điều 5 và đề xuất giải pháp chỉnh sửa phù hợp với Hiến pháp, BLHS và thực tiễn quản lý.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Một số bất cập của khoản 4 Điều 5 dự thảo

2.1. Bất cập tại điểm (a) khoản 4 Điều 5 dự thảo: “Thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà không có khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo liên quan theo quy định"

Điểm a Khoản 4 Điều 5 có 02 điểm bất cập.

Thứ nhất, “Thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh” là cách tiếp cận không hợp lý vì mấy lý do sau đây:

Lý do thứ nhất, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng vị trí đó vì vụ lợi. Động cơ vụ lợi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành các tội tham nhũng. Chính vì vậy, động cơ vụ lợi đối lập một cách tuyệt đối và cơ học với bất kỳ mục tiêu công nào. Một hành vi đã mang bản chất vụ lợi thì không thể đồng thời mang mục tiêu phục vụ lợi ích công.

Lý do thứ hai, mục đích “phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh” là ý chí của Nhà nước, là mục tiêu khách quan của dự án nhằm xây dựng và bảo vệ đất nước. Không thể lấy ý chí, mục tiêu của Nhà nước – vốn có tính chất vì lợi ích chung – để biện minh cho hành vi tham nhũng. Càng không thể đánh đồng mục tiêu cao cả của Nhà nước với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi của cá nhân.

Lý do thứ ba, về mặt lôgic không thể tồn tại khái niệm “tham nhũng vì mục đích phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Tham nhũng luôn gây thiệt hại cho Nhà nước và xã hội; nó đối lập hoàn toàn với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội hay bảo đảm quốc phòng, an ninh – những mục tiêu thiết yếu gắn liền với chức năng của Nhà nước.

Thứ hai, việc đề xuất hành vi tham nhũng không có khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo liên quan, là một trong các căn cứ để không truy cứu trách nhiệm hình sự là không hợp lý, vì các lý do sau:

Lý do thứ nhất, “không có khiếu nại, tố cáo” không đồng nghĩa với “không có sai phạm”. Một hành vi tham nhũng có thể không bị tố cáo vì nhiều nguyên nhân như: sai phạm chưa bị phát hiện; người dân biết nhưng sợ bị trù dập, trả thù; cơ chế bảo vệ người tố cáo yếu kém; hoặc tâm lý e ngại va chạm với cơ quan công quyền. Vì vậy, việc không phát sinh khiếu nại, tố cáo chỉ cho thấy sự thiếu hiệu quả của cơ chế giám sát hoặc sự sợ hãi của người dân, chứ không thể được coi là dấu hiệu chứng minh hành vi không nguy hiểm cho xã hội.

Lý do thứ hai, tiêu chí “đã giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo” tiềm ẩn nguy cơ bị lạm dụng, do quá trình giải quyết khiếu nại – tố cáo không phải lúc nào cũng khách quan. Một vụ việc được ghi nhận là “đã giải quyết dứt điểm” có thể đến từ những yếu tố không trong sáng như áp lực quyền lực, tác động của nhóm lợi ích, thỏa hiệp hoặc mua chuộc người khiếu nại, hoặc người khiếu nại buộc phải rút đơn vì lo ngại về an toàn cá nhân hoặc vì các lý do kinh tế – xã hội. Như vậy, dấu mốc “đã giải quyết dứt điểm” chỉ phản ánh trạng thái xử lý hồ sơ khiếu nại chứ không làm thay đổi bản chất vụ lợi, mức độ sai phạm hay hậu quả của hành vi tham nhũng. Vì thế, sử dụng tiêu chí này để miễn trách nhiệm hình sự là không hợp lý.

Lý do thứ ba, việc có hay không có khiếu nại, tố cáo hoàn toàn không liên quan đến mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng. Tham nhũng về bản chất là hành vi lợi dụng quyền lực công để vụ lợi, xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu, đạo đức công vụ, tính liêm chính trong quản trị và niềm tin của xã hội. Do đó, mức độ nguy hiểm của tội phạm không thể được “giảm nhẹ” hay “xóa bỏ” chỉ vì không có khiếu nại, tố cáo hoặc vì khiếu nại đã được giải quyết về thủ tục hành chính.

Không những vậy, nếu quy định này được coi là căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự, sẽ vô tình tạo ra một cơ chế hợp pháp hóa hành vi tham nhũng. Người phạm tội có thể lợi dụng quyền lực để gây sức ép, thao túng hồ sơ, đe dọa người tố cáo, khiến các sai phạm không bị phát hiện hoặc được “giải quyết dứt điểm” theo hướng có lợi cho họ. Điều này không chỉ làm mất tác dụng răn đe của luật hình sự mà còn vô tình tạo ra rào chắn bảo vệ hành vi tham nhũng, đặc biệt trong những vụ việc có tổ chức hoặc liên quan đến nhóm lợi ích.

2.2. Bất cập tại điểm b khoản 4 Điều 5 của dự thảo:“Không tham nhũng, không gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước, hoặc nếu có thì đã khắc phục toàn bộ hậu quả".

Điểm b khoản 4 Điều 5 có một số bất cập sau:

Thứ nhất, điểm b khoản 4 Điều 5 của dự thảo, có dấu hiệu không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế được ghi nhận tại khoản 2 Điều 51của Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi năm 2025). Theo đó, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.

Như vậy, việc quy định“Không tham nhũng, không gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước” đã tạo ra sự không bình đẳng giữa các chủ thể của các thành phần kinh tế khác nhau. Hệ quả là môi trường đầu tư bị tổn hại khi pháp luật ngầm gửi thông điệp rằng thiệt hại tài sản nhà nước thì được xem xét, còn thiệt hại của nhà đầu tư thuộc khu vực ngoài nhà nước thì không quan trọng, không được bảo vệ khi có hành vi tham nhũng xâm hại.

Thứ hai, yếu tố khắc phục hậu quả là căn cứ miễn trách nhiệm hình sự là không hợp lý vì môt số lý do sau:

Lý do thứ nhất, yếu tố “khắc phục hậu quả” chỉ được pháp luật ghi nhận là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không phải căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. Nếu quy định rằng người phạm tội tham nhũng chỉ cần khắc phục hậu quả là được miễn xử lý hình sự thì điều này đã vô tình tạo cơ chế khuyến khích tham nhũng: cán bộ, công chức có thể thực hiện hành vi tham nhũng và khi bị phát hiện chỉ cần trả lại tài sản là không bị xử lý hình sự. Cách tiếp cận này không chỉ làm suy yếu tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật hình sự, mà còn tiềm ẩn nguy cơ bảo vệ lợi ích nhóm, làm giảm hiệu quả của chính sách phòng, chống tham nhũng. Nếu được thông qua, quy định sẽ đi ngược lại mục tiêu lập pháp cũng như nguyên tắc xử lý nghiêm minh đối với tội phạm tham nhũng, vốn là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về xử lý hành vi tham nhũng.

Lý do thứ hai, việc đề xuất sử dụng yếu tố “khắc phục hậu quả” như một căn cứ miễn trách nhiệm hình sự có dấu hiệu vượt quá thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.

Theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, “khắc phục hậu quả” chỉ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không phải căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. Việc nâng một tình tiết giảm nhẹ lên thành điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự là sự thay đổi bản chất pháp lý của chế định; đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội với tư cách là cơ quan lập pháp, chứ không phải thẩm quyền giải thích pháp luật của Hội đồng Thẩm phán.

Do vậy, đề xuất này tiềm ẩn nguy cơ vượt quá phạm vi thẩm quyền, trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Thẩm phán.

Lý do thứ ba, trong thực tiễn xử lý các tội phạm tham nhũng có tổ chức, việc “khắc phục hậu quả” thường không phản ánh ý chí tự nguyện của chính người phạm tội.Trong nhiều vụ án, người bị bắt chỉ là một mắt xích trong nhóm lợi ích, còn quyết định “nộp tiền khắc phục” thực chất do các cá nhân hoặc tổ chức đứng sau chi phối. Nhóm lợi ích có thể bỏ tiền để “cứu” người bị bắt nhằm tránh bị khai ra họ, hoặc ngược lại để mặc người đó chịu trách nhiệm nếu họ tin rằng mình an toàn và không ai có thể lần ra vai trò của họ.

Bên cạnh đó, một thực tế phổ biến là hành vi tham nhũng thường bị phát hiện rất muộn, sau nhiều năm thực hiện, khi tài sản chiếm đoạt đã bị sử dụng, phân tán, hợp thức hóa hoặc tiêu xài hết. Việc khắc phục hậu quả trong các trường hợp này gần như không nằm trong khả năng thực tế của người phạm tội, bởi tài sản không còn, hoặc đã chuyển hóa qua nhiều lớp trung gian. Vì thê, việc “khắc phục hậu quả” không phản ánh ý thức hối cải thật sự của người phạm tội, cũng không phản ánh mức độ giảm bớt nguy hiểm của hành vi, mà chủ yếu là kết quả của các tính toán nội bộ của đường dây tham nhũng, hoặc đơn giản là không thể thực hiện được do tài sản tham nhũng đã bị tiêu tán từ lâu.

Từ phân tích trên cho thấy, yếu tố “khắc phục hậu quả” như căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự là không phù hợp với bản chất của các vụ án tham nhũng, tiềm ẩn nguy cơ bị thao túng và không bảo đảm công bằng trong xử lý tội phạm.

2.3. Bất cập tại điểm c khoản 4 Điều 5 của dự thảo: “Dự án có sai phạm đã hoàn thành và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội”.

Điểm c của khoản 4 Điều 5 có một số bất cập sau:

Thứ nhất, việc coi điều kiện “dự án có sai phạm đã hoàn thành và mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội” như một căn cứ miễn trách nhiệm hình sự là trái với nguyên tắc cơ bản của luật hình sự.

Luật hình sự xác định tội phạm tham nhũng dựa trên hành vi và lỗi cố ý vụ lợi của người phạm tội, chứ không dựa trên hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án. Do đó, việc dự án đã hoàn thành và mang lại hiệu quả không hề làm thay đổi bản chất tham nhũng của hành vi, cũng không làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tham nhũng. Hiệu quả của dự án là kết quả của quy hoạch, thẩm định và quyết định đầu tư đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền, chứ không phải do hành vi tham nhũng mang lại. Người thực hiện hành vi tham nhũng không làm dự án tốt hơn; trái lại, họ chỉ làm méo mó quy trình, đội chi phí, tăng rủi ro pháp lý và tạo tiền lệ xấu trong quản lý đầu tư công.

Vì vậy, không thể sử dụng hiệu quả của dự án như căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự, bởi điều này không có cơ sở pháp lý và hoàn toàn mâu thuẫn với bản chất của tội phạm tham nhũng. Nếu chấp nhận cách tiếp cận này, luật hình sự sẽ bị biến dạng thành cơ chế bảo vệ cho hành vi tham nhũng, thay vì bảo đảm nguyên tắc pháp quyền, sự liêm chính trong thi hành công vụ và tính nghiêm minh trong quản lý nhà nước.

Thứ hai, việc xem điều kiện “dự án có sai phạm đã hoàn thành và mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội” như một căn cứ miễn trách nhiệm hình sự sẽ vô hình trung tạo động cơ khuyến khích tham nhũng, vì người thực hiện biết rằng hành vi của mình vẫn có khả năng không bị xử lý hình sự.Đối với các dự án trọng điểm quốc gia, việc phê duyệt chỉ được tiến hành sau quy trình thẩm định, đánh giá tác động và cân nhắc chính sách rất chặt chẽ. Do đó, khả năng dự án mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội là mặc định và có xác suất rất cao. Trong bối cảnh này, nếu pháp luật cho phép lấy “hiệu quả của dự án” làm căn cứ miễn trách nhiệm, thì cán bộ rất dễ chấp nhận rủi ro tham nhũng, bởi họ nhìn thấy xác suất gần như chắc chắn rằng hành vi của mình sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi dự án hoàn thành và cho thấy hiệu quả.

3. Đề xuất hoàn thiện khoản 4 Điều 5 của Dự thảo

Để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và phù hợp với Bộ luật Hình sự, Dự thảo cần bãi bỏ hoàn toàn cơ chế “không truy cứu trách nhiệm hình sự” được thiết kế tại khoản 4 Điều 5. Ba điều kiện tại các điểm a, b và c không phản ánh việc làm giảm mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, và càng không phải là các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS. Cách thiết kế này đi ngược bản chất pháp lý của tội phạm tham nhũng — vốn luôn mang bản chất vụ lợi — đồng thời phá vỡ nguyên tắc răn đe và tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng để hợp thức hóa sai phạm trong hoạt động đầu tư công.

Thay vì miễn trách nhiệm hình sự, chính sách nhân đạo nên được thể hiện thông qua cơ chế giảm nhẹ đặc biệt, cho phép Tòa án áp dụng Điều 54 BLHS (xử dưới mức thấp nhất của khung) hoặc Điều 65 BLHS (cho hưởng án treo nếu đủ điều kiện) khi người phạm tội đã khắc phục toàn bộ thiệt hại, tự nguyện nộp lại tài sản chiếm đoạt hoặc thu lợi bất chính, và dự án hoặc công trình liên quan thực sự mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội, được cơ quan có thẩm quyền thẩm định khách quan. Cơ chế này vừa bảo đảm tính khoan hồng của pháp luật, vừa giữ nguyên nguyên tắc xuyên suốt: mọi hành vi tham nhũng đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khác với tình tiết giảm nhẹ thông thường, cơ chế giảm nhẹ đặc biệt không xóa bỏ trách nhiệm hình sự mà chỉ điều chỉnh mức độ hình phạt dựa trên mức độ khắc phục hậu quả và thái độ hợp tác của người phạm tội. Đây là cách tiếp cận cân bằng, thực tế và không làm suy yếu mục tiêu phòng chống tham nhũng.

Kết luận

Việc dự thảo Nghị quyết đề xuất cơ chế “không truy cứu trách nhiệm hình sự” dựa trên các điều kiện như hiệu quả dự án, việc khắc phục hậu quả hay không có khiếu nại, tố cáo không phù hợp với bản chất tội phạm tham nhũng và trái với nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Hiệu quả của dự án hay việc khắc phục hậu quả không làm thay đổi tính chất vụ lợi, mức độ nguy hiểm của hành vi và do đó không thể trở thành căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. Thay vào đó, việc áp dụng cơ chế giảm nhẹ đặc biệt đối với những trường hợp không vụ lợi và đã khắc phục toàn bộ hậu quả vừa bảo đảm tính răn đe, công bằng, vừa tạo động lực thực tế cho người phạm tội tự giác sửa chữa sai phạm, đồng thời hạn chế nguy cơ lạm dụng. Đây mới là giải pháp cân bằng, hợp lý, bảo vệ nguyên tắc pháp quyền và củng cố niềm tin xã hội vào sự liêm chính, minh bạch của quản lý đầu tư công.

TS TRẦN ĐÌNH THẮNG

Đại học Công nghệ Đông Á

Các tin khác