Điều 27 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) [1] quy định như sau:
“Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù hoặc trên 500.000.000 đồng đối với pháp nhân thương mại phạm tội, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy tìm hoặc truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi tìm được người đó hoặc người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ”.
Dự thảo Điều 27 có hai điểm mới, trong đó đáng chú ý nhất là lần đầu tiên ghi nhận “quyết định truy tìm”, bên cạnh “quyết định truy nã”, là căn cứ để tính lại thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cố tình trốn tránh. Ngoài ra, dự thảo cũng bổ sung quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

Ảnh minh họa.
“Quyết định truy tìm” được áp dụng cho nhiều loại đối tượng trong các lĩnh vực như điều tra hình sự, thi hành án hình sự, xử lý vi phạm hành chính,… “Quyết định truy nã” được áp dụng cho các đối tượng là: bị can, bị cáo và người bị kết án.
Trong phạm vi bài viết này, “quyết định truy tìm” được hiểu là quyết định truy tìm người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị nghi thực hiện tội phạm trong lĩnh vực điều tra hình sự (sau đây gọi chung là “quyết định truy tìm người”). Đồng thời, tác giả chỉ sử dụng quy định về “quyết định truy nã bị can” như một đối chiếu để phân tích và so sánh với “quyết định truy tìm người".
Quyết định truy nã bị can và quyết định truy tìm người trong pháp luật hiện hành
Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự hiện hành, nếu bị can cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã bị can, thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tính lại kể từ thời điểm bị can ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Tương ứng với quy định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về truy nã bị can tại Điều 231, bao gồm: Điều kiện, thẩm quyền ban hành, nội dung quyết định, hình thức thông báo và việc kết thúc truy nã. Một số văn bản hướng dẫn cụ thể về quy định này gồm: Thông tư liên tịch số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 09/10/2012 hướng dẫn quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự về truy nã; Thông tư số 39/2021/TT-BCA ngày 12/4/2021 của Bộ Công an quy định về công tác truy nã của Công an nhân dân [2].
Đối với quyết định truy tìm người, theo các quyết định công bố công khai [3], loại quyết định này được ban hành trên cơ sở Thông tư số 04/2022/TT-BCA ngày 17/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về công tác truy tìm trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng, Thông tư số 04/2022/TT-BCA nêu trên chỉ là văn bản mang tính chất nghiệp vụ nội bộ của ngành Công an, chứ không phải là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc đối với tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng – như Bộ luật Tố tụng hình sự và các Thông tư liên tịch hướng dẫn quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Như vậy, khác với quyết định truy nã bị can, quyết định truy tìm người hiện nay chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, mà chỉ được ghi nhận trong văn bản quy định về công tác nghiệp vụ nội bộ của ngành Công an.
Quyết định truy tìm người trong Điều 27 dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi 2025 – một bổ sung hợp lý và cấp thiết
Trong thực tiễn tố tụng hình sự, không hiếm gặp trường hợp người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn trong giai đoạn điều tra, đặc biệt là trong các vụ án đồng phạm với nhiều người tham gia, khi cơ quan điều tra chưa có đủ căn cứ để khởi tố bị can và ra quyết định truy nã. Đáng chú ý, cũng có những tình huống người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố hoặc người bị nghi thực hiện tội phạm đã bỏ trốn trước hoặc trong giai đoạn cơ quan điều tra mới chỉ tiến hành kiểm tra, xác minh.
Ví dụ: A. trình báo rằng đã cho B. mượn xe máy trị giá 30 triệu đồng nhưng B. không trả và cắt đứt liên lạc. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được, không biết B đang ở đâu; hành vi có dấu hiệu phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự (tội phạm ít nghiêm trọng). Do chưa đủ căn cứ khởi tố bị can và ra quyết định truy nã, cơ quan điều tra ra quyết định truy tìm B. Nếu B. cố tính trốn tránh (và không phạm tội mới có mức cao nhất của khung hình phạt trên 01 năm tù), sau 05 năm, là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm này, cơ quan điều tra sẽ không thể xử lý hình sự đối với B.
Tình huống trên phản ánh một khoảng trống pháp lý đáng lưu ý đó là khi pháp luật chưa dự liệu trường hợp người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố hoặc bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn trong khi chưa đủ căn cứ khởi tố bị can để ra quyết định truy nã mà chỉ có thể ra quyết định truy tìm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự vẫn tiếp tục được tính. Điều này tạo cơ hội để người phạm tội lợi dụng quy định về thời hiệu như một phương thức né tránh trách nhiệm hình sự, qua đó làm suy giảm hiệu lực thực thi của pháp luật hình sự trên thực tế.
Do đó, theo tác giả, việc bổ sung “quyết định truy tìm người” là căn cứ để tính lại thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cố tình trốn tránh vào Điều 27 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) là một giải pháp hợp lý và cấp thiết. Điều này không chỉ khắc phục khoảng trống pháp lý mà còn góp phần bảo đảm sự nghiêm minh, công bằng trong xử lý tội phạm.

Thạc sĩ, Luật sư Đặng Kim Chinh.
Lý do cần đồng thời bổ sung quy định về “truy tìm người” trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là một chế định thể hiện chính sách khoan dung có điều kiện của Nhà nước, cho phép không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nếu họ không bị xử lý trong một khoảng thời gian đủ dài, trừ một số trường hợp nhất định không áp dụng thời hiệu hoặc tính lại thời hiệu [4], trong đó có trường hợp mà quyết định truy nã bị can là căn cứ tính lại thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như đã đề cập bên trên.
Nếu dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) bổ sung quy định coi "quyết định truy tìm người" là căn cứ để tính lại thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tương tự như quyết định truy nã bị can, thì bản thân quyết định này sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp đối với địa vị pháp lý của người bị truy tìm.
Điều này dẫn đến sự chuyển hóa về bản chất của quyết định truy tìm người: từ một văn bản mang tính nghiệp vụ nội bộ thành một quyết định tố tụng có ảnh hưởng đến trình tự, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự.
Với bản chất mới đó, việc ban hành, thực hiện và chấm dứt quyết định truy tìm người phải được chính thức ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đạo luật có chức năng kiểm soát quyền lực tố tụng và bảo đảm tính minh bạch, hợp pháp trong hoạt động điều tra, cũng như trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Để minh họa, có thể xem xét tình huống sau: Điều 27 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính lại kể từ khi tìm được người đó, nhưng việc xác định “tìm được người đó” có thể rơi vào nhiều trường hợp như: Người đó ra trình diện, bị cưỡng chế đưa về, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng tiếp cận được và xác định rõ nơi cư trú. Trong mỗi trường hợp, cần có văn bản xác nhận cụ thể, như biên bản làm việc hoặc tài liệu ghi nhận, để đưa vào hồ sơ tố tụng, vừa làm cơ sở pháp lý để tính lại thời hiệu, vừa bảo đảm cho việc kiểm sát tính hợp pháp của hoạt động tố tụng. Chính vì vậy, việc ban hành, thực hiện và chấm dứt quyết định truy tìm người không thể không được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (năm 2025) [5] hiện chưa có quy định về “truy tìm người”, dẫn đến nguy cơ tạo ra khoảng trống pháp lý nếu nội dung bổ sung “quyết định truy tìm người” trong Điều 27 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) được thông qua.
Kiến nghị
Từ các phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị, việc bổ sung “quyết định truy tìm người” vào Điều 27 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) cần được thực hiện đồng bộ với việc sửa đổi, bổ sung các quy định tương ứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cụ thể, tác giả đề xuất:
Một là, bổ sung một điều luật độc lập trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 231a, để quy định về “truy tìm người”, với các nội dung cơ bản, gồm:
- Căn cứ và điều kiện để ban hành quyết định;
- Thẩm quyền ban hành và cơ chế kiểm sát;
- Nội dung bắt buộc của quyết định;
- Thời điểm và điều kiện kết thúc việc truy tìm.
Hai là, quy định rõ nội dung chuyển tiếp trong Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi 2025) nhằm xử lý các tình huống thực tiễn có thể phát sinh, như sau:
- Trường hợp quyết định truy tìm người được ban hành trước thời điểm các bộ luật sửa đổi có hiệu lực nhưng việc “tìm được người đó” diễn ra sau thời điểm này;
- Trường hợp vụ án hoặc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố đã bị tạm đình chỉ trước ngày các bộ luật sửa đổi có hiệu lực, nhưng được phục hồi và dẫn đến việc ban hành quyết định truy tìm người sau thời điểm các bộ luật sửa đổi có hiệu lực.
[1] Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2025) được Bộ Công an trình Chính phủ ngày 02/4/2025 (https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/chi-dao-dieu-hanh.aspx?ItemID=4879, truy cập 10h00 ngày 05/5/2025).
[2] Theo bài “Những điểm mới về công tác truy nã tại Thông tư số 39/2021/TT-BCA ngày 12/4/2021 của Bộ Công an” đăng ngày 18/05/2021 trên Cổng thông tin điện tử Công An Thành hố Hồ Chí Minh, truy cập 11h30 ngày 05/5/2025.
[3] Theo các quyết định truy tìm người công khai:
- Quyết định truy tìm người số 12580/QĐ-CSHS của CQCSĐT-CATP.Hà Nội ngày 11/4/2025: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/truy-tim-co-gai-tre-ta-mai-anh-lien-quan-den-vu-lua-dao-ban-ve-am-nhac-415399.html, truy cập 14h00 ngày 05/5/2025.
- Quyết định truy tìm người số của CQCSĐT- CATP.Đà Nẵng ngày 16/4/2025: https://congan.com.vn/giao-thong-24h/tim-chu-xe-tim-nguoi/truy-tim-doi-tuong-nghi-lua-dao-tien-ty-qua-chay-thu-tuc-ve-dat_176728.html, truy cập 14h15 ngày 05/5/2025.
[4] Các trường hợp tính lại và không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
Thứ nhất, theo khoản 3 Điều 27 Bộ luật Hình sự hiện hành, thời hiệu sẽ được tính lại từ đầu nếu trong thời hạn luật định, người phạm tội:
- Thực hiện hành vi phạm tội mới có mức cao nhất của khung hình phạt trên một năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới; hoặc
- Cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu được tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Thứ hai, theo Điều 28 Bộ luật Hình sự hiện hành, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự không được áp dụng đối với một số loại tội phạm, bao gồm:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia theo Chương XIII Bộ luật Hình sự;
- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh theo Chương XXVI;
- Tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 và khoản 4 của các Điều 353 và 354.
[5] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự, (https://duthaoonline.quochoi.vn/dt/luat-sua-doi-bo-sung-mot-so-dieu-cua-bo-luat-to-tung-hinh-su/250425112445835490), truy cập truy cập 14h00 ngày 06/5/2025.