Theo Điều 171 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội "Cướp giật tài sản" như sau:
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
…
Mặc dù, điều luật và các văn bản hướng dẫn áp dụng không mô tả cụ thể hành vi cướp giật. Qua thực tiễn áp dụng có thể thể khái quát về hành vi khách quan của loại tội phạm này như sau:
Thứ nhất, về hành vi phạm tội: Hành vi cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng, công khai, lợi dụng yếu tố bất ngờ để chiếm đoạt tài sản trong sự kiểm soát của chủ sở hữu.

Ảnh minh họa.
Thứ hai, về phương thức thực hiện: Người phạm tội thường lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại hoặc thực hiện hành vi trong những điều kiện thuận lợi như nơi đông người, không có khả năng chống cự.
Thứ ba, hậu quả: Tài sản bị chiếm đoạt là kết quả trực tiếp từ hành vi cướp giật. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong điều luật, cụ thể đó là khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, không phụ thuộc vào giá trị tài sản.
Ví dụ: A. điều khiển xe mô tô trên đường nhìn thấy chị B. đang cầm trên tay chiếc điện thoại nên đã điều khiển xe áp sát gần chị B. và nhanh chóng giật lấy điện thoại rồi bỏ chạy.
Theo phân tích trên có thể thấy rằng, cấu thành cơ bản của loại tội phạm này không có gì vướng mắc, bất cập. Tuy nhiên, đối với việc áp dụng tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “Hành hung để tẩu thoát” theo điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS hiện nay vẫn còn có quan điểm áp dụng khác nhau, bởi vì liên quan đến tình tiết này nhiều trường hợp sẽ có sự chuyển hóa tội phạm từ cướp giật tài sản sang cướp tài sản.
Đối với việc hướng dẫn áp dụng tình tiết định khung “Hành hung để tẩu thoát”, các văn bản quy định như sau:
Mục VII Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về việc chuyển hóa từ một số hình thức chiếm đoạt tài sản quy định: “Thực tiễn xét xử cho thấy các Tòa án đã định tội không thống nhất đối với các trường hợp kẻ phạm các tội chiếm đoạt tài sản (như cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, lừa đảo) đã dùng bạo lực để chiếm đoạt cho bằng được tài sản định chiếm đoạt hoặc để tẩu thoát. Nhiều Tòa án đã coi mọi trường hợp nói trên là cướp tài sản, ngược lại có Tòa án chỉ coi việc dùng bạo lực là tình tiết tăng nặng của việc chiếm đoạt chứ không kết án kẻ phạm tội về tội cướp tài sản.
Nay cần thống nhất như sau:
- Nếu là trường hợp do chưa chiếm đoạt được tài sản mà kẻ phạm tội dùng vũ lực hay đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì cần định tội là cướp tài sản…
- Nếu là trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng chủ tài sản họăc người khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài sản còn ở trong tay kẻ phạm tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được, thì cần định tội là cướp tài sản…
Đối với các trường hợp trên đây chỉ cần kết án kẻ phạm tội về một tội là cướp tài sản… và coi việc chiếm đoạt (chưa thành hoặc đã thành) trước khi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là tình tiết diễn biến của tội phạm.
- Nếu việc dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là nhằm để tẩu thoát (kể cả khi tẩu thoát cùng với tài sản đã chiếm đoạt được), thì không kết án kẻ phạm tội về cướp tài sản…, và tùy trường hợp mà kết án họ về tội phạm xảy ra trước khi dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) và coi việc dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (tình tiết định khung hình phạt cao hơn theo các Điều 131, 132, 154, 155 BLHS). Nếu việc dùng vũ lực dẫn tới hậu quả làm chết người thì kẻ phạm tội bị kết án thêm về tội "Giết người". Nếu hậu quả của việc dùng vũ lực là cố ý gây tật nặng hoặc gây thương tích dẫn đến chết người thì kẻ phạm tội bị kết án thêm về tội "Cố ý gây thương tích" theo khoản 3 Điều 109 BLHS”.
Và tại mục 6 phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XiV “các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “6. Khi áp đụng tình tiết "Hành hung để tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều 136; điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”.
Vướng mắc, bất cập
Theo các quy định trên, người thực hiện hành vi phạm tội "Cướp giật tài sản" bị chặn lại đã sử dụng vữ lực nhằm thoát khỏi sự truy đuổi hoặc chống cự của chủ tài sản mà không có ý định giữ bằng được tài sản đã cướp giật, chiếm đoạt được thì không được coi là chuyển hóa tội phạm. Ngược lại, trường hợp người phạm tội sau khi chiếm đoạt được tài sản hoặc chưa chiếm đoạt được tài sản đã có hành vi sử dụng vũ lực đối với nạn nhân để nhằm lấy, giữ, chiếm đoạt cho bằng được tài sản thì tội phạm đã được chuyển hóa sang một mức nguy hiểm hơn.
Về lý luận thì sẽ không có gì bàn cãi, tuy nhiên căn cứ vào các vụ án xảy ra trên thực tế, có nhiều vụ án nếu áp dụng đúng tinh thần mục 6.1 Thông tư liên tịch số 02/2001 có thể sẽ nhầm lẫn dẫn đến việc định tội danh chưa chính xác:
Ví dụ 1: B. đến cửa hàng điện thoại giả vờ mua điện thoại, khi được nhân viên bán hàng đưa điện thoại cho xem đã nhanh chóng giật lấy chiếc điện thoại và bỏ chạy. Khi bị giật điện thoại thì nhân viên cửa hàng đã đuổi theo đồng thời hô to “cướp, cướp” nên người dân kịp thời chặn được B. lại và yêu cầu trả lại chiếc điện thoại. B. không nói gì mà rút dao bấm trong túi ra giơ lên “tránh ra, không tao đâm chết”. Lợi dụng người chặn B. hơi lùi lại nên B. đã bỏ chạy tẩu thoát.
Có rất nhiều quan điểm cho rằng B. phạm tội "Cướp giật tài sản" với tình tiết định khung hình phạt “Hành hung để tẩu thoát” theo điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS. Áp dụng đúng tinh thần quy định tại tiểu mục 6.1 Thông tư liên tịch số 02/2001, hành vi chống trả của B. với mục đích hành hung để tẩu thoát, hơn nữa chiếc điện thoại vẫn ở trên người B. chưa bị người dân giành lại thì B. đã bỏ chạy tẩu thoát.
Quan điểm của tác giả về vấn đề trên: Hành vi phạm tội của B. đã có sự chuyển hóa tội phạm từ cướp giật tài sản sang cướp tài sản. Bởi vì, khi bị chặn lại thì B. đã rút dao bấm trong túi ra giơ lên và nói “tránh ra, không tao đâm chết”. Đây chính là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc trong cấu thành của tội "Cướp tài sản" theo Điều 168 BLHS: Người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tại thời điểm phạm tội, được thể hiện bằng lời nói hoặc cử chỉ hành động đe dọa sẽ tấn công người chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc người cản trở nếu không đáp ứng yêu cầu hoặc có ý định ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Do vậy, cần truy tố, xét xử B. về tội "Cướp tài sản" theo Điều 168 BLHS.
Ví dụ 2: Lợi dụng đêm tối thấy chị K. đang dừng xe nghe điện thoại, A. đi xe áp sát giật lấy điện thoại của chị K. bỏ vào túi rồi tăng ga bỏ chạy, chị K. liền hô hoán và chạy tới nắm lấy càng sau xe máy của A. Thấy nhiều người đi đường dừng lại, A. trong lúc lo sợ liền dùng chân đạp vào người chị K. khiến chị K. ngã ra đường và sau đó tiếp tục tăng ga tẩu thoát.
Xung quanh vụ án như tình huống đưa ra cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định tội danh đối với A., phần lớn các quan điểm đồng tình và cho rằng A. phạm tội "Cướp giật tài sản" với tình tiết định khung hình phạt “Hành hung để tẩu thoát” theo điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS (áp dụng tinh thần quy định tại tiểu mục 6.1 Thông tư liên tịch số 02/2001).
Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả: Hành vi của A. đã có sự chuyển hóa tội danh từ "Cướp giật tài sản" thành "Cướp tài sản" bởi vì sau khi giật được túi xách, A. đã có hành vi sử dụng vũ lực đối với nạn nhân nhằm chiếm bằng được tài sản và tẩu thoát, căn cứ theo hướng dẫn tại tiểu mục 6.2 Mục 6 Thông tư liên tịch số 02/2001 thì A. phạm tội "Cướp tài sản".
Đề xuất, kiến nghị
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999, trong đó việc hướng dẫn áp dụng tình tiết định khung hình phạt tăng nặng hình phạt “hành hung để tẩu thoát” được quy định tại mục 6 của Thông tư. Qua việc tìm hiểu một số vụ án trên thực tế cho thấy, việc áp dụng tinh thần của Thông tư đã không còn phù hợp. Bởi lẽ, có những trường hợp mục đích và hành vi giữa “Cố chiếm giữ cho bằng được tài sản” và “Hành hung tẩu thoát” thường không rõ ràng. Điều này dễ dẫn đến việc xác định sai tội danh…
Do đó, trong thời gian tới cần thiết phải ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong trường hợp chuyển hóa tội phạm hay chỉ là “Hành hung để tẩu thoát” như đã nêu trên.