/ Luật sư - Bạn đọc
/ Bảo mật thông tin trong công chứng điện tử

Bảo mật thông tin trong công chứng điện tử

22/09/2025 10:46 |

(LSVN) - Việc bảo mật thông tin trong công chứng điện tử được thực hiện thông qua việc sử dụng chữ ký số hợp lệ, tài khoản định danh cũng như chứng thư chữ ký số được cấp miễn phí qua ứng dụng VNeID. Đây đều là các biện pháp bảo mật đã được chứng minh về độ an toàn và được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong đời sống, từ các giao dịch ngân hàng đến hoạt động tác nghiệp trong các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp để nhằm giảm thiểu rủi ro bị giả mạo và gian lận và nâng cao độ tin cậy của các giao dịch.

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có những tác động to lớn, làm thay đổi nhanh chóng mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức rất lớn, thậm chí có tính quyết định đến sự phát triển của đất nước. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ chương, chính sách để đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, coi đây “là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới” (Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị).

Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy sự phát triển các giao dịch điện tử là điều tất yếu, mang tính đột phá trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia, mang lại nhiều lợi ích cho người dân, doanh nghiệp, và đáp ứng được các yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành rất nhiều các quy định có liên quan, đã xây dựng được các hành lang pháp lý cần thiết cho việc thực hiện các giao dịch diện tử, điển hình là: Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số 68/2024/NĐ-CP, Nghị định số 23/2025/NĐ-CP, và Nghị định số 194/2025/NĐ-CP...).

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Và để đảm bảo sự minh bạch và an toàn pháp lý cho các giao dịch điện từ thì Luật Công chứng năm 2024 và Nghị định 104/2025/NĐ-CP của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 01/7/2025) đã có các quy định về việc công chứng điện tử. Việc bổ sung thêm hình thức công chứng điện tử là rất cần thiết, sẽ góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong các giao dịch dân sự, đáp ứng được các yêu cầu phát triển của nền kinh tế-xã hội. Công chứng điện tử thực hiện rất dễ dàng, nhanh chóng, bất cứ người dân nào sử dụng điện thoại đều có thể thực hiện được; giúp người dân và doanh nghiệp không phải di chuyển nhiều khi giao dịch; tiết kiệm thời gian và chi phí lưu trữ văn bản công chứng. Đặc biệt là đối với giao dịch bất động sản trên các sàn giao dịch trực tuyến thì công chứng điện tử góp phần thuận lợi và bảo đảm an toàn, khép kín quy trình giao dịch và đăng ký bất động sản trực tuyến. Việc giao dịch bất động sản của các nhà đầu tư sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí hơn đáng kể so với cách làm truyền thống.

Song hành với việc phát triển các giao dịch điện tử thì yêu cầu đảm an toàn dữ liệu, bí mật thông tin trong giao dịch điện tử cũng hết sức quan trọng, không thể thiếu. Về vấn đề này, pháp luật hiện hành đã có rất nhiều các quy định liên quan đến việc đảm bảo an toàn dữ liệu, bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử. Trước hết, là các quy định tại Luật An ninh mạng năm 2018, và tại Khoản 3 Điều 6 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 cũng nghiêm cấm các hành vi: “Thu thập, cung cấp, sử dụng, tiết lộ, hiển thị, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông điệp dữ liệu”.

Mặt khác, hoạt động công chứng giao dịch điện tử cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc: “Bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ thông điệp dữ liệu và bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật; thông tin trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu” (khoản 1 Điều 62 Luật Công chứng năm 2024). Đồng thời, khi hành nghề thì các công chứng viên phải có nghĩa vụ: “Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác” (điểm e khoản 2 Điều 18 Luật Công chứng năm 2024). Điều này đã được cụ thể hóa tại khoản 1, khoản 3 Điều 6 của Bộ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng được ban hành kèm theo Quyết định số 148/QĐ-HĐCCVTQ ngày 11/03/2025 của Hội đồng công chứng viên toàn quốc:

1. Công chứng viên có trách nhiệm giữ bí mật các thông tin trong hồ sơ yêu cầu công chứng, hồ sơ công chứng và tất cả thông tin biết được về nội dung công chứng trong quá trình hành nghề cũng như khi không còn là công chứng viên; trường hợp được sự đồng ý bằng văn bản của người yêu cầu công chứng hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Công chứng viên có trách nhiệm hướng dẫn nhân viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng của mình không được tiết lộ bí mật thông tin về việc công chứng mà họ biết theo nội quy, quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, quy định của pháp luật; đồng thời, giải thích rõ trách nhiệm pháp lý của họ trong trường hợp tiết lộ những thông tin đó.

Hiện nay, việc bảo mật thông tin trong công chứng điện tử được thực hiện thông qua việc sử dụng chữ ký số hợp lệ, tài khoản định danh cũng như chứng thư chữ ký số được cấp miễn phí qua ứng dụng VNeID. Đây đều là các biện pháp bảo mật đã được chứng minh về độ an toàn và được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong đời sống, từ các giao dịch ngân hàng đến hoạt động tác nghiệp trong các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp để nhằm giảm thiểu rủi ro bị giả mạo và gian lận và nâng cao độ tin cậy của các giao dịch.

Nếu công chứng viên hoặc bất kỳ cá nhân, tổ chức nào thu thập, sử dụng, mua bán, hoặc tiết lộ trái phép các thông tin liên quan đến các giao dịch điện tử thì tùy vào nội dung, tính chất và mức độ vi phạm đều có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, đơn cử như các chế tài sau:

Đối với công chứng viên hoặc các nhân viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng thực hiện hành vi: “Tiết lộ thông tin về nội dung công chứng mà không được sự đồng ý bằng văn bản của người yêu cầu công chứng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” thì sẽ bị phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng (điểm a khoản 3 Điều 15 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP của Chính phủ). Đây là mức phạt đối với cá nhân, trường hợp đối với tổ chức thức gấp 02 lần mức phạt đối với cá nhân.

Đối với các cá nhân, tổ chức khác có hành vi tiết lộ bí mật đời tư của cá nhân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự trên dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội thì sẽ bị xử phạt hành chính bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật (khoản 2, 3 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Nghị định số 14/2022/NĐ-CP của Chính phủ).

Ngoài ra, nếu ở mức độ nghiêm trọng thì người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội như: Tội "Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288), hoặc tội "Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác” (Điều 289) của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Có thể thấy, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo ra bước đột phá lớn trong chính sách, chủ chương phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh, hiện đại trong kỷ nguyên mới. Tuy nhiên, để Nghị quyết này có thể thực hiện hiệu quả phải đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm chính trị cao của của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chỉ với sự đồng lòng và hành động quyết liệt, chúng ta mới có thể biến những mục tiêu đầy tham vọng thành hiện thực.

Bên cạnh những chủ chương, chính sách chung, thì từng ngành, từng lĩnh vực cũng cần nỗ lực trong viêc xây dựng, hoàn thiện chính sách và pháp luật, có các giải pháp đồng bộ, mang tính đột phá, cách mạng sâu rộng, để thúc đẩy việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số phù hợp nhất với các đặc thù và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu riêng của các ngành hoặc lĩnh vực cụ thể, đặt trong sự liên kết, đồng bộ và thống nhất với sự phát triển chung của quốc gia, của cả nền kinh tế-xã hội đất nước.

Đồng thời, chúng ta cũng phải không ngừng nâng cao khả năng đảm bảo an ninh mạng, an toàn dữ liệu, bảo mật thông tin của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, không thể tách rời quá trình chuyển đổi số quốc gia. Chỉ có như vậy, mới tạo ra được môi trường an toàn, để người dân và xã hội yên tâm, tin tưởng tham gia tích cực vào việc ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực.

Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG

Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.

Các tin khác