/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự - Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, đề xuất

Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự - Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, đề xuất

10/11/2024 06:47 |

(LSVN) - Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn quan trọng trong tố tụng hình sự, được thực hiện bởi cơ quan hoặc người có thẩm quyền nhằm quản lý hành vi của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, một cá nhân hoặc tổ chức phải đưa ra giấy cam đoan để bảo đảm rằng bị can, bị cáo sẽ tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của cơ quan chức năng, bao gồm việc có mặt theo các giấy triệu tập và không được phép bỏ trốn. Đồng thời, bảo lĩnh còn nhằm ngăn chặn việc bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật khác có thể gây cản trở quá trình tố tụng.

Ngoài ra, bảo lĩnh cũng tạo điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo có cơ hội được tại ngoại trong một số trường hợp nhất định, nếu đảm bảo thực hiện đúng các cam kết. Bằng cách này, biện pháp bảo lĩnh bảo đảm nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, quy định tại Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đối với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự

Theo quy định tại Điều 121 BLTTHS:

1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.

Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.

Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật.

Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự là một lựa chọn thay thế cho tạm giam, cho phép bị can, bị cáo được tạm thời tại ngoại trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Phân tích biện pháp này có thể chia thành các yếu tố chính như sau:

- Mục đích của biện pháp bảo lĩnh: Bảo lĩnh nhằm giảm sự hạn chế về quyền con người, quyền tự do của bị can, bị cáo trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, trong khi vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý và giám sát. Việc bảo lĩnh cho phép bị can, bị cáo sinh hoạt trong cộng đồng dưới sự bảo đảm của cá nhân hoặc tổ chức, thay vì bị giam giữ.

- Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh: Biện pháp bảo lĩnh chỉ được áp dụng nếu hành vi của bị can, bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm không đến mức phải tạm giam hoặc khi đã tạm giam nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng nhận thấy bị can, bị cáo đủ điều kiện để áp dụng biện pháp bảo lĩnh và có cá nhân, tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh đủ điều kiện để nhận bảo lĩnh theo quy định của điều này.

- Điều kiện để bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh: Các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo. Tức là, nếu hành vi phạm tội không gây nguy hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ tái phạm thấp, đồng thời bị can, bị cáo có lý lịch và thái độ tốt, cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét cho họ được bảo lĩnh. Trong thực tiễn, biện pháp này thường được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ thành khẩn khai báo hoặc bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nguy hiểm cao nhưng bị ốm đau, bệnh nặng…

- Điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được nhận bảo lĩnh: Đối với cá nhân nhận bảo lĩnh phải là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh và phải có ít nhất 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Riêng đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Cơ quan tổ chức, chỉ được nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình.

- Thẩm quyền quyết định: Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, và Tòa án là các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Mỗi cơ quan này, trong phạm vi quyền hạn của mình, sẽ đánh giá mức độ cần thiết của bảo lĩnh dựa trên các điều kiện quy định. Thẩm quyền quyết định không chỉ nhằm vào việc bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo mà còn để đảm bảo an toàn cho cộng đồng, tránh các rủi ro có thể phát sinh nếu biện pháp này không được áp dụng phù hợp.

- Yêu cầu cam kết của cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh: Để bảo lĩnh được áp dụng, cần có một cá nhân hoặc tổ chức đứng ra cam kết chịu trách nhiệm giám sát và bảo đảm rằng bị can, bị cáo sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật trong thời gian nhận bảo lĩnh. Cụ thể, cá nhân hoặc tổ chức bảo lãnh phải cam đoan rằng bảo đảm bị can, bị cáo sẽ không vi phạm các quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS: không tiếp tục phạm tội, không bỏ trốn và có mặt đầy đủ khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; không vi phạm pháp luật khác trong thời gian được bảo lĩnh... Điều này giúp hạn chế rủi ro mà bị can, bị cáo có thể gây ra trong quá trình được bảo lĩnh.

- Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh: Trong trường hợp cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức bảo lĩnh không thực hiện đúng cam kết, để cho bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan (như bỏ trốn, tái phạm hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác,…), họ sẽ chịu hậu quả pháp lý nhất định. Cụ thể, cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức đó có thể bị tước quyền bảo lĩnh, đồng thời tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của việc không thực hiện cam kết, họ có thể bị phạt tiền theo quy định của pháp luật.

- Hậu quả pháp lý của biện pháp bảo lĩnh: Người bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền công dân của mình. Điều này có nghĩa là bị can, bị cáo vẫn có quyền sinh hoạt và thực hiện các quyền công dân một cách bình thường, miễn sao việc thực hiện quyền đó không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Đây là một điểm khác biệt quan trọng so với biện pháp tạm giam, vốn hạn chế quyền tự do của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, nếu bị can, bị cáo được bảo lĩnh nhưng vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết (như không có mặt khi được triệu tập, bỏ trốn hoặc có hành vi cản trở tố tụng), biện pháp bảo lĩnh sẽ bị hủy bỏ và người đó sẽ bị áp dụng biện pháp tạm giam.

- Thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh:

Đối với bị can, bị cáo: Thời hạn áp dụng bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo không được vượt quá thời gian tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử. Điều này có nghĩa là biện pháp bảo lĩnh sẽ tự động chấm dứt khi hết thời hạn đối với từng giai đoạn tố tụng.

Đối với người bị kết án phạt tù: Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án tù không được quá thời gian kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Như vậy, biện pháp bảo lĩnh là một phương thức ngăn chặn nhẹ nhàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn và hiệu quả trong công tác tố tụng hình sự. Việc áp dụng bảo lĩnh đòi hỏi sự đánh giá kỹ lưỡng từ các cơ quan tố tụng có thẩm quyền, dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, cũng như đảm bảo rằng cá nhân, tổ chức bảo lãnh sẽ thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong quá trình bảo lĩnh.

Khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp bảo lĩnh

Trong thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh, vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập cần giải quyết để đảm bảo tính hiệu quả và thống nhất. Một số vấn đề phổ biến bao gồm:

Thứ nhất, về thời điểm áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Theo BLTTHS, bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam. Tuy nhiên, không quy định rõ ràng về việc biện pháp bảo lĩnh có được áp dụng ngay từ khi khởi tố bị can hay chỉ áp dụng sau khi bị can, bị cáo sau khi đã có quyết định tạm giam bị can, bị cáo. Điều này dẫn đến thực tế rằng, có những trường hợp biện pháp bảo lĩnh được áp dụng ngay khi có quyết định khởi tố bị can, hoặc khi bị can ra đầu thú, trong khi một số trường hợp khác chỉ áp dụng sau khi đã áp dụng biện pháp tạm giam. Sự thiếu hướng dẫn này gây ra bất cập và không thống nhất trong việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ hai, điều kiện áp dụng bảo lĩnh chưa cụ thể. Quy định hiện tại chỉ quy định các điều kiện áp dụng bảo lĩnh dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhưng không làm rõ những trường hợp cụ thể nào được áp dụng, chẳng hạn như loại tội phạm nào hay nhân thân của người phạm tội. Điều này khiến việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh dễ bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan của các cơ quan tố tụng, dẫn tới việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh không phù hợp, không thống nhất.

Thứ ba, điều kiện đối với tổ chức nhận bảo lĩnh. Tại BLTTHS có quy định tiêu chuẩn đối với cá nhân nhận bảo lĩnh (phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, tuân thủ pháp luật) nhưng không quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức nhận bảo lĩnh. Điều này dẫn đến câu hỏi liệu tổ chức nào có thể nhận bảo lĩnh, chỉ các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tôn giáo, hay bất kỳ tổ chức nào cũng có quyền nhận bảo lĩnh cho thành viên của mình khi họ có hành vi phạm tội và các cơ quan, tổ chức này có đảm bảo cho việc giám sát bị can, bị cáo hay không. Việc thiếu tiêu chuẩn cụ thể cho tổ chức nhận bảo lĩnh có thể gây khó khăn trong việc kiểm soát và giám sát quá trình bảo lĩnh.

Thứ tư, quy định hiện tại về xử lý cá nhân, tổ chức bảo lĩnh khi vi phạm nghĩa vụ như đã cam đoan khi nhận bảo lĩnh vẫn chưa đủ chặt chẽ và chi tiết. Điều này khiến cho việc xử lý các trường hợp tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh vi phạm cam kết không được thực hiện nghiêm túc, đôi khi gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án.

Kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, các cơ quan tư pháp Trung ương cần có hướng dẫn cụ thể về thời điểm áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tránh gây khó khăn, thiếu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Đề xuất bổ sung thêm quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS theo hướng quy định rõ về thời điểm áp dụng biện pháp này, cụ thể như sau: “1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam có thể được áp dụng ngay khi có quyết định khởi tố bị can hoặc khi đang bị tạm giam mà đáp ứng được đầy đủ các điều kiện để áp dụng biện pháp này…”.

Thứ hai, cần phải có quy định cụ thể về các trường hợp được nhận bảo lĩnh. Tác giả đề xuất rằng cần có quy định cụ thể về những trường hợp có thể áp dụng biện pháp bảo lĩnh kết hợp với việc các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào từng vụ án cụ thể cũng như hoàn cảnh và nhân thân của bị can, bị cáo để quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặc biệt ưu tiên các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có lý lịch rõ ràng và thái độ khai báo thành khẩn. Một số trường hợp đặc biệt, như bị can, bị cáo ốm nặng hoặc là trụ cột gia đình, cũng nên được xem xét. Đồng thời quy định đối tượng phạm loại tội nào được áp dụng biện pháp ngăn chặn này mà không quy định mang tính chung chung như hiện nay.

Thứ ba, về điều kiện đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh, phải có quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn của các cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo, các tiêu chuẩn này giúp xác định phạm vi của những tổ chức có trách nhiệm và đủ khả năng giám sát, để giảm thiểu rủi ro bị can, bị cáo có thể gây ảnh hưởng xấu đến quá trình tố tụng. Đề xuất bổ sung khoản 2 Điều 121 BLTTHS theo bổ sung thêm điều kiện của cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh, cụ thể như sau: “2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình, ngoài các cơ quan, tổ chức thuộc nhà nước, cơ quan, tổ chức của Đảng, đơn vị Quân đội, hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, các tổ chức nhận bảo lĩnh phải đảm bảo tư cách pháp nhân và được thành lập hợp pháp. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức”.

Thứ tư, cần có mức xử lý phù hợp, có tính răn đe đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh nhưng để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 BLTTHS, nếu vi phạm trong quá trình bảo lĩnh đến mức nghiêm trọng và gây hậu quả đáng kể cho xã hội hoặc quá trình tố tụng đến mức phải chịu TNHS, thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người liên quan, bao gồm cả cá nhân hoặc tổ chức đã nhận bảo lĩnh và không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam đoan.

PHẠM CAO SƠN
Tòa án Quân sự khu vực Hải quân

Các tin khác