/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Bất cập và đề xuất hoàn thiện

Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Bất cập và đề xuất hoàn thiện

21/06/2022 16:18 |

(LSVN) - Hiện nay, tình hình tội phạm đang có chiều chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn ngày càng phức tạp. Trên thực tế có những trường hợp đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải hành động ngay tức khắc để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Và việc quy định các biện pháp ngăn chặn là một chế định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) đã giúp các cơ quan chức năng làm được điều đó. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều quy định còn chồng chéo, chưa thống nhất trong biện pháp ngăn chặn khiến cho việc áp dụng khó triển khai trên thực tế. Đặc biệt là đối với biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp vẫn còn tồn tại nhiều quy định chồng chéo, khó áp dụng.

Ảnh minh họa. 

Về mặt kỹ thuật lập pháp

Chưa có sự thống nhất giữa quy định tại Điều 109 và Điều 110 của BLTTHS về biện pháp ngăn chặn. Cụ thể như sau:

Tại khoản 1 Điều 109 quy định: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh".

Như vậy, qua quy định này có thể thấy biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và biện pháp bắt người là hai biện pháp ngăn chặn độc lập với nhau. Và đối với biện pháp bắt người lại được chia thành 5 trường hợp bắt người bắt người tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS: “Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ".

Qua đó, có thể thấy bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là một trường hợp của biện pháp bắt người hoàn toàn độc lập với biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, Điều 110 BLTTHS với tên gọi của điều luật là “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Tuy nhiên, kết cấu nội dung của điều luật lại điều chỉnh hai nội dung đó là về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (khoản 4 Điều 110). Theo tác giả, quy định như vậy là chưa hợp lý. Xét về mặt kỹ thuật lập pháp việc quy định gộp hai biện pháp ngăn chặn lại chung một điều luật là chưa phù hợp. Hơn nữa, tên gọi của điều luật chưa bao hàm hết được nội dung của điều luật. Theo quan điểm của tác giả, nên sửa đổi quy định tại điêu 110 theo hướng như sau: Sửa đổi tên gọi của điều luật. Điều 110 sẽ có tên là “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”.

Về thẩm quyền

Tại khoản 2 Điều 117 BLTTHS quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ.” Tại khoản 2 Điều 110 quy định về thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp như sau:

“Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;

c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.”

Xét những chủ thể này quy định tại điểm a và điểm b là những chủ thể thuộc cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, việc pháp luật cho phép những chủ thể tại điểm c đó là: “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” được quyền ra lệnh tạm giữ là không hợp lý. Bởi vì:

Thứ nhất, những chủ thể này không thuộc những chủ thể được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều tra theo Luật Tổ chức cơ quan đều tra hình sự năm 2015.

Thứ hai, nếu như BLTTHS đặc cách cho các chủ thể này có quyền ra lệnh tạm giữ thì những chủ thể này ra lệnh tạm giữ trong trường hợp nào? Bởi vì theo quy định tại Điều 117 thì khi rơi vào những trường hợp sau mới được giữ người đó là : “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”.

Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thì tại khoản 4 Điều 110 quy định: “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về”. Nếu những chủ thể tại điểm c khoản 2 phải giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngay sau khi cập bến thì không thể ra quyết định tạm giữ được.

Nếu như những chủ thể tại điểm c khoản 2 Điều 110 có quyền ra lệnh giữ bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hay người bị bắt theo quyết định truy nã thì lại mâu thuẫn với Điêu 111 và Điều 112. Tại khoản 1 Điều 111 quy định: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền".

Còn tại khoản 1 Điều 112 quy định: “Đối với người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Như vậy, công việc đầu tiên khi bắt người đang bị truy nã hoặc phạm tội quả tang là giải ngay đến người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất chứ không quy định được phép tạm giữ trong trường hợp này. Còn đối với trường hợp người phạm tội tự thú hoặc đầu thú với những chủ thể quy định tại điểm c khoản 2 cũng không phải là những cơ quan, tổ chức để người phạm tội đến tự nguyện khai báo hành vi của mình. Nên quy định tất cả những chủ thể tại điểm c khoản 2 Điều 110 được quyền ra lệnh tạm giữ là không hợp lý.

Theo tác giả, nên sửa đổi lại quy định ở khoản 2 Điều 117 theo hướng như sau:

“Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ”.

Thông báo về việc bắt người

Điều 116 BLTTHS quy định: “Sau khi giữ người, bắt người, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người phải thông báo ngay cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết.”

Đây là quy định nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị bắt, tuy nhiên việc thông báo sẽ được thực hiện ra sao khi người bị bắt không có nơi cư trú rõ ràng, không có gia đình. Trong trường hợp này, để đảm bảo tối đa cho người bị bắt theo tác giả, trong trường hợp này nên quy định theo hướng để cho người bị bắt chọn ai là người thân thiết với mình mà mình tin tưởng nhất. Vậy nên, theo tác giả Điều 166 BLTTHS cần được sửa đổi như sau:

“Sau khi giữ người, bắt người, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người phải thông báo ngay cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết, trường hợp những đối tượng trên không có gia đình hoặc nơi cư trú rõ ràng thì báo cho người thân thích mà những đối tượng đó tin tưởng nhất…”

Về đối tượng của của biện pháp bắt người bị giữ

Khoản 4 Điều 110 BLTTHS quy định: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn".

Như vậy, có thể thấy trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Thì những chủ thể quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 110 phải tiến hành lấy lời khai và sau đó quyết định việc tạm giữ và bắt người bị giữ. Như vậy, việc lấy lời khai của những đối tượng này có nhằm mục đích làm rõ nguyên nhân họ bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hay không? Để những cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ. Và chỉ với hoạt động lấy lời khai liệu có đủ căn cứ để những cơ quan đó làm sáng tỏ lý do những đối tượng trên bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hay không? Tại khoản 4 Điều 110 cũng quy định những người được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 110 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy, ở đây có thể hiểu lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ban hành sau khi những đối tượng trên đã có quyết định tạm giữ. Vậy đối tượng của bắt người ở đây là bắt người bị tạm giữ chứ không phải là bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Theo tác giả nên quy định về trình tự ra các lệnh và quyết định để không bị nhầm lẫn về đối tượng. Cụ thể phải ra lệnh bắt người bị giữ đó trước rồi mới ra quyết định tạm giữ. Quy định như thế là phù hợp, bởi trên thực tế có những trường hợp không tạm giữ được đối tượng nếu chưa bắt được họ. Theo tác giả, nên sửa đổi lại khoản 4 Điều 110 theo hướng như sau:

“Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và tiến hành một số hoạt động làm sáng tỏ việc giữu người trong trường hợp khẩn cấp và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra lệnh bắt người bị giữ, ra quyết định tạm giữ quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó...

Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và tiến hành một số hoạt động làm sáng tỏ việc giữu người trong trường hợp khẩn cấp và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra lệnh bắt người bị giữ, ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó…".

Và để tương thích với Điều 110 thì khoản 1 Điều 117 cần được sửa đổi như sau:

“Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị bắt vì bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã".

HOÀNG ĐÌNH DŨNG

Tòa án quân sự Quân khu 4

Một số kiến nghị khi sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013

Lê Minh Hoàng