/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Chính sách xử lý hình sự đối với trẻ em phạm tội: Định hướng phát triển và giải pháp hoàn thiện

Chính sách xử lý hình sự đối với trẻ em phạm tội: Định hướng phát triển và giải pháp hoàn thiện

01/10/2023 07:00 |

(LSVN) - Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều điểm nổi bật trong chính sách hình phạt đối với trẻ em phạm tội như: thu hẹp phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em, hoàn thiện nguyên tắc và mục đích áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp phục hồi được quy định cụ thể, đa dạng hơn..., thể hiện những bước tiến lớn trong chính sách hình sự ưu tiên đặc biệt đối với nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến chính sách hình sự của nhóm đối tượng này là thực sự cần thiết nhằm hạn chế số lượng trẻ em phạm tội, trẻ em tái phạm, tái phạm nguy hiểm để các em phát triển lành mạnh, tự tin, trở thành công dân có ích cho xã hội. Bài viết phân tích một số vấn đề trọng tâm của chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội và đề xuất những giải pháp ưu tiên khắc phục những điểm còn hạn chế.

Ảnh minh họa.

Khái niệm trẻ em theo pháp luật Việt Nam

Trẻ em là khái niệm được đề cập ở nhiều văn bản pháp luật quốc tế và là đối tượng hướng đến bảo vệ bằng nhiều hoạt động của Liên hợp quốc. Trong các văn bản quốc tế tồn tại hai khái niệm là “trẻ em” và “người chưa thành niên”. Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em là văn bản pháp lý quan trọng quy định các quyền cơ bản của trẻ em (CRC), Điều 1 đã xác định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy, cần hiểu rằng CRC xác định trẻ em phải là người dưới 18 tuổi và trong những hoàn cảnh nhất định, nếu việc áp dụng độ tuổi khác có lợi hơn cho trẻ em thì có thể quy định một mức độ tuổi khác riêng cho trường hợp đó. Bên cạnh đó, các quốc gia vẫn có thể phân độ tuổi của trẻ em ra thành các nhóm độ tuổi khác nhau để có các chính sách dành riêng phù hợp cho từng nhóm độ tuổi đó. Chính vì lẽ đó, các quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế, thuật ngữ “trẻ em” và “người chưa thành niên” được sử dụng như nhau. Việc đồng nhất khái niệm trẻ em và người chưa thành niên trong các văn bản pháp luật quốc tế cho chúng ta hiểu rằng những văn bản quốc tế bảo vệ người chưa thành niên thì cũng được áp dụng với trẻ em và ngược lại bởi nội hàm của hai khái niệm này hoàn toàn trùng khớp.

Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam thì hai khái niệm này lại không được hiểu như nhau vì phạm vi có khác nhau: “Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi” (khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015), còn theo Điều 1 Luật Trẻ em - luật gốc về nhóm đối tượng này lại quy định “trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Như vậy, khái niệm “trẻ em” có phạm vi hẹp hơn khái niệm “người chưa thành niên”, có thể hiểu trẻ em là người chưa thành niên nhưng người chưa thành niên không phải lúc nào cũng là trẻ em. Do đó, chính sách hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên thì đều được áp dụng với trẻ em, cụ thể là: những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng sẽ được áp dụng đối với trẻ em khi chúng là chủ thể của tội phạm.

Định hướng xây dựng chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội ở Việt Nam

Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý đang phát triển, còn hạn chế của trẻ em nên trẻ em phạm tội cần được nhìn nhận theo chiều hướng được ưu tiên hơn các chủ thể phạm tội khác. Theo đó, cần xây dựng nguyên tắc và mục đích xử lý hình sự nhóm đối tượng này không mang nặng tính trừng phạt mà hướng đến giáo dục, phòng ngừa. Do đó, các quy định pháp luật hình sự quốc gia cần thể hiện được:

Một là, về độ tuổi và phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em phải bảo đảm trẻ em cần đạt đến độ tuổi nhất định mới phải chịu trách nhiệm hình sự, độ tuổi này cần xây dựng trên cơ sở khuyến nghị của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, cần xác định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự phù hợp với độ tuổi của trẻ em cũng như khả năng phòng ngừa trên thực tế. Để định ra giới hạn các tội phạm cụ thể mà trẻ em có thể phải chịu trách nhiệm hình sự cần nhận thức rõ ràng rằng không được quá nghiêm khắc nhưng cũng không được quá nới lỏng và phải tính đến ngăn ngừa khả năng tái phạm của trẻ cũng như tâm lý thấy sợ mà tránh của trẻ, đặc biệt những hành vi mà trẻ em vi phạm pháp luật nhiều trong thực tế, song các biện pháp phi hình sự trong thời gian dài đã không thể khắc phục thì cần mở rộng diện xử lý hình sự là cần thiết.

Hai là, để đạt được mục đích giáo dục trong xử lý hình sự đối với trẻ em phạm tội, cần mở rộng các biện pháp xử lý trong đó hạn chế các biện pháp xử lý mang tính giam giữ, không áp dụng các biện pháp có khả năng tước đi cơ hội được sửa chữa và hòa nhập cộng đồng của trẻ em (hình phạt tù chung thân, tử hình) và tăng cường các biện pháp giám sát, giáo dục xử lý chuyển hướng nhằm tạo tư pháp phục hồi cho trẻ em phạm tội. Như vậy, nếu phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em có mở rộng thì cũng cần cân nhắc để áp dụng các biện pháp phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi tạo điều kiện cho trẻ em nhận thức được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình đã thực hiện, đồng thời hạn chế việc tái phạm trong tương lai bởi tính nghiêm khắc của pháp luật. Ba là, quyết định hình phạt đối với trẻ em phạm tội trong trường hợp không thể xử lý chuyển hướng cần xác định mức hình phạt nhẹ hơn so với nhóm chủ thể phạm tội khác. Tuy nhiên, mức độ nhẹ hơn này cũng cần xây dựng cụ thể, phù hợp với mức hình phạt giữa người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người đã thành niên phạm tội.

Trách nhiệm hình sự đối với trẻ em phạm tội ở Việt Nam

Về độ tuổi và phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em

Trên cơ sở đặc điểm tâm - sinh lý, thể chất và khả năng nhận thức của trẻ em Việt Nam, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và chính sách, đường lối xử lý tội phạm của Đảng và Nhà nước qua từng thời kỳ, đồng thời qua tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm và tính phổ biến của những loại tội phạm mà trẻ em thực hiện trong những thời điểm cụ thể, Bộ luật Hình sự năm 2015 xác định độ tuổi thấp nhất chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi. Như vậy, nhóm trẻ em phải chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là mức tuổi trung bình so với các nước trên thế giới.

Chính sách bảo vệ trẻ em phạm tội của Việt Nam không chỉ dừng lại ở quy định độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự tương đối cao như trên mà Bộ luật Hình sự năm 2015 còn quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em thông qua quy định về các trường hợp trẻ em phải chịu trách nhiệm hình sự và các trường hợp trẻ em được miễn trách nhiệm hình sự.

Các trường hợp trẻ em phải chịu trách nhiệm hình sự

Theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em được thu hẹp lại rất nhiều(1), đó là khi trẻ em thực hiện tội phạm, tội phạm đó thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: một là, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; hai là, thuộc trong 28 tội sau: tội giết người (Điều 123), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội cướp tài sản (Điều 168), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), tội cướp giật tài sản (Điều 171), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178), tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248), tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250), tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251), tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252), tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265), tội đua xe trái phép (Điều 266), tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286), tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287), tội xâm phạm trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289), tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290), tội khủng bố (Điều 299), tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303), tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304). Ngoài ra, đối với hành vi chuẩn bị phạm tội thì trẻ em chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội giết người (Điều 123) và tội cướp tài sản (Điều 168). 

Các trường hợp trẻ em được miễn trách nhiệm hình sự

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em và mở rộng phạm vi miễn trách nhiệm hình sự cho nhóm đối tượng này được thể hiện ở bảng sau:
 

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về biện pháp xử lý trẻ em phạm tội

Hệ thống các biện pháp xử lý trẻ em phạm tội của pháp luật hình sự Việt Nam quy định các biện pháp tư pháp phục hồi mang tính giáo dục, cải tạo trẻ em đồng thời cũng tính đến sự giảm đi mức độ thiệt hại của nạn nhân và cộng đồng.

Các biện pháp giám sát, giáo dục

Các biện pháp giám sát, giáo dục bao gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Đây là các biện pháp thay thế áp dụng trong trường hợp trẻ em được miễn trách nhiệm hình sự và lần đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự. Giá trị của các biện pháp này thể hiện rõ tính nhân văn, tạo điều kiện để chuyển hướng xử lý trẻ em phạm tội ra khỏi vòng tư pháp hình sự. Đây là xu hướng chung trong chính sách xử lý đối với nhóm đối tượng này của nhiều nước trên thế giới như Thụy Điển, Đức, Nga, Nhật Bản, Thái Lan, Philipin, Úc, Canada… đồng thời cũng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ trẻ em.

Biện pháp tư pháp

Biện pháp tư pháp là một trong các biện pháp cưỡng chế hình sự, áp dụng để “hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt”(2). Do đó, cùng với các biện pháp tư pháp nói chung, biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng làm tăng số lượng các biện pháp mang tính thay thế cho biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất (hình phạt) trong trường hợp nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với trẻ em phạm tội. Điều này cho thấy sự ưu tiên trong việc mở rộng các biện pháp xử lý mang tính ít nghiêm khắc hơn hình phạt đối với trẻ em phạm tội.

Quyền ưu tiên còn được thể hiện ở chỗ, biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng chỉ dành riêng cho người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung, trong đó có trẻ em phạm tội, do đó người đã thành niên phạm tội sẽ không được áp dụng biện pháp này. Tính chất của biện pháp này là cách ly đối tượng ra khỏi môi trường sống hiện tại của họ một thời gian thay vào đó là một môi trường sống mới “ngoài giờ học văn hóa, học nghề, lao động, học sinh được tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, đọc sách báo, xem truyền hình và các hoạt động vui chơi giải trí khác do trường tổ chức”(3).

Hình phạt đối với trẻ em phạm tội

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất, vì thế quyền ưu tiên mà trẻ em được hưởng sẽ được thể hiện đậm nét trong quy định này. Với mục đích xử lý trẻ em phạm tội nhằm hướng thiện, giáo dục các em nên theo nguyên tắc thứ tự áp dụng các biện pháp xử lý trẻ em phạm tội thì hình phạt là phương án cuối cùng sau khi đã được cân nhắc có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự không, có thể áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục hay không.

Hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam áp dụng với thể nhân gồm có 07 hình phạt chính và 07 hình phạt bổ sung. Theo Điều 98 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong 04 hình phạt: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Điều 34 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt” mà loại tội ít nghiêm trọng thì không thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em và Điều 99 Bộ luật Hình sự quy định “phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi…”, trong khi trẻ em là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Do đó, trẻ em phạm tội chỉ phải chịu 2/7 hình phạt (chiếm 28,5%) đó là cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn, so với người đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội thì trẻ em không phải chịu hình phạt cảnh cáo và hình phạt tiền (bằng 50%).

Ngoài ra, thể hiện chính sách hình phạt đối với trẻ em phạm tội, coi hành vi phạm tội tại thời điểm người phạm tội là trẻ em cần được nhìn nhận ít nghiêm khắc hơn trường hợp phạm tội mà chủ thể thực hiện đã vượt qua lứa tuổi đó, nên việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hoặc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án mà các tội phạm được thực hiện ở các thời điểm trưởng thành khác nhau, trong đó có thời điểm là trẻ em đã được nhà làm luật quy định cụ thể. Theo đó, nếu tất cả các tội phạm đều được thực hiện khi còn là trẻ em hoặc nguyên tắc thu hút hình phạt, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án vào tội nặng hơn là tội được thực hiện tại thời điểm là trẻ em thì mức hình phạt chung trong các trường hợp này không được vượt quá mức hình phạt áp dụng với trẻ em phạm tội nhằm bảo đảm quyền ưu tiên cho nhóm đối tượng này. Bởi so với người đã thành niên phạm tội thì mức hình phạt tổng hợp từ nhiều bản án hoặc trong trường hợp phạm nhiều tội cao hơn nhiều (Điều 55, 56 Bộ luật Hình sự năm 2015).

Giải pháp ưu tiên thực hiện chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội

Chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội được đề cập tại các Nghị quyết của   Bộ   Chính   trị: số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; số 48/ NQ-TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp và Chỉ thị số 20/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới.

Các Nghị quyết, Chỉ thị nói trên đã chỉ ra các giải pháp cải cách tư pháp, xây dựng tư pháp thân thiện, mục đích xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, việc đề cập này vẫn còn ở mức độ khiêm tốn, chưa đưa thành một quan điểm lớn, thể hiện thái độ mạnh mẽ đối với việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội trong đó có trẻ em. Trong khi đó, thực tiễn trẻ em phạm tội vẫn diễn ra phức tạp và quá trình áp dụng pháp luật đối với các biện pháp xử lý chuyển hướng còn rất hạn chế. Theo một tổng kết “Từ năm 2019 đến năm 2021, chưa có trường hợp nào được áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng; chỉ có 10 trường hợp được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn(4). Thực tế này cho thấy cơ quan xét xử vẫn hoài nghi về tính hiệu quả khi áp dụng chế tài này do thấy cơ chế thi hành chưa đạt kỳ vọng nên thường áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo.

Bên cạnh đó, đường hướng áp dụng hình phạt đối với trẻ em phạm tội chưa có thống nhất chung. Luật hình sự Việt Nam thiết kế còn ít chế tài lựa chọn để áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nói chung và trẻ em phạm tội nói riêng, do đó khả năng ưu tiên trong lựa chọn các hình thức chế tài, đánh giá tính hiệu quả của từng hình phạt để áp dụng của mỗi Thẩm phán là không giống nhau. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ dừng lại ở 04 loại hình phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn), trong khi theo thông lệ quốc tế thì hình phạt có tính điển hình thường gồm các biện pháp như: cảnh báo; thả có điều kiện; hoàn trả/bồi thường; phạt tiền; lao động công ích; hướng dẫn và cố vấn; yêu cầu tư vấn/điều trị; chương trình giáo dục, đào tạo hoặc phục hồi; quản chế; giam giữ tại gia; trường giáo dưỡng; phạt tù. Các quy định về tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên còn tản mạn ở nhiều văn bản quy phạm khác nhau nên việc tiếp cận, thực thi gặp khó khăn đòi hỏi chủ trương xây dựng văn bản hợp nhất mang tính phổ quát các vấn đề liên quan đến tư pháp người chưa thành niên. Cơ chế bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em phạm tội còn hạn chế. Cụ thể, các kênh thông tin, truyền thông, bao gồm cả báo chí vẫn còn vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về bảo vệ thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em như thông tin, phản ánh chi tiết, cụ thể hành vi phạm tội, nơi xảy ra vụ việc, địa chỉ cư trú của trẻ em, hình ảnh trẻ em hoặc cha, mẹ, người thân của trẻ em phạm tội gây ảnh hưởng đến danh dự, tâm lý và khả năng tái hòa nhập cộng đồng.

Các giải pháp thực hiện chính sách hình sự đối với trẻ em phạm tội ở Việt Nam cần ưu tiên giải quyết các hạn chế nêu trên, có thể theo hướng như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu sự cần thiết ban hành một nghị quyết của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội. Nghị quyết này tập trung vào các vấn đề: i) xác định mục tiêu là xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật, hệ thống pháp luật về tư pháp người chưa thành niên; ii) chính sách xử lý hình sự thể hiện quan điểm giáo dục, phòng ngừa; iii) xác định các thủ tục tố tụng tư pháp đối với người chưa thành niên; iv) phương hướng tổ chức thi hành án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Nghị quyết này sẽ đề ra chủ trương, cơ sở chính trị cho việc thiết kế toàn diện chính sách pháp luật về tư pháp người chưa thành niên.

Thứ hai, ban hành nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nói chung và trẻ em phạm tội nói riêng. Nghị quyết này cần hướng dẫn các nghiệp vụ sau: i) quan điểm về áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, trong đó nêu rõ quan điểm áp dụng trách nhiệm hình sự đối với trẻ em phạm tội; ii) nguyên tắc xác định hình phạt chính trong các chế tài lựa chọn đối người chưa thành niên phạm tội từ 16 tuổi trở lên và đối với trẻ em phạm tội; iii) nguyên tắc áp dụng hình phạt bổ sung; iv) xác định mức độ trưởng thành khi quyết định hình phạt hoặc khi xác định xử lý chuyển hướng đối với trẻ em phạm tội.

Thứ ba, xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên, trong đó bổ sung thêm các biện pháp xử lý chuyển hướng như lao động công ích, hướng dẫn và cố vấn, yêu cầu tư vấn/điều trị, chương trình giáo dục, đào tạo hoặc phục hồi, quản chế, giam giữ tại gia để gia tăng các biện pháp xử lý chuyển hướng được lựa chọn, phù hợp với sự phát triển thể chất, nhận thức và hoàn cảnh sống của cá thể trẻ em phạm tội, từ đó nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp này.

Thứ tư, ban hành nghị định của Chính phủ về chế tài xử phạt đối với các trường hợp có hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em phạm tội, trong đó quy định rõ các trường hợp truyền thông, báo chí hoặc cá nhân có hành vi đưa tin để lộ thông tin cá nhân, hình ảnh, nơi cư trú của trẻ em phạm tội và người thân của họ sẽ bị xử lý hành chính, nếu hậu quả dẫn đến trẻ em hoặc người thân thích tự sát thì có thể bị xử lý hình sự tùy thuộc vào hành vi xâm phạm quyền riêng tư.

(1) Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em là “tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” mà không chỉ rõ tội nào nên được hiểu là toàn bộ các tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và toàn bộ các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng cả do cố ý và do vô ý thì trẻ em đều phải chịu trách nhiệm hình sự.

(2) Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.679.

(3) Điều 15 Nghị định số 52/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

(4) https://dangcongsan.vn/cuc-bao-tro-xa-hoi/chinh-sach-tro-giup-xa-hoi/hoan-thien-chinh-sach-phap-luat-ve-tu-phap- nguoi-chua-thanh-nien-628803.html

TS VŨ THỊ PHƯỢNG 

Trường Đại học Công đoàn

Một số đánh giá về việc xử lý kỷ luật lao động

Nguyễn Hoàng Lâm