/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Đề xuất giải pháp nâng cao nguyên tắc không ai bị kết án hai lần về một hành vi phạm tội trong thực tiễn

Đề xuất giải pháp nâng cao nguyên tắc không ai bị kết án hai lần về một hành vi phạm tội trong thực tiễn

02/11/2025 07:55 |

(LSVN) - Một người khi thực hiện một tội phạm tức là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (đáp ứng các dấu hiệu cấu thành của một tội phạm quy định trong luật hình sự). Do đó, họ phải chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt về tội phạm mà họ đã gây ra. Bản án đã tuyên (kết án) đã có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước đối với hành vi phạm tội và trong trường hợp có tội, bản án đưa ra một hình phạt cụ thể trong hệ thống hình phạt của Bộ luật Hình sự để áp dụng đối với người phạm tội. Do vậy, người phạm tội khi đã bị xét xử về tội phạm do mình thực hiện và đã có bản án có hiệu lực pháp luật thì không phải chịu thêm bất kỳ một sự kết án nào khác về tội phạm đó.

Trong trường hợp bản án có hiệu lực tuyên vô tội thì nguyên tắc trên vẫn được áp dụng như những bản án có hiệu lực khác. Bởi lẽ, dù bản án tuyên có tội hay vô tội thì người phạm tội cũng đã bị một lần xét xử do hành vi mình thực hiện, cho nên không thể chịu thêm bất kỳ lần xét xử nào khác đối với hành vi đó. Trong trường hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố về tội phạm trên thì vụ án phải được đình chỉ. Nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo, công bằng trong pháp luật hình sự.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Việt Nam lần đầu tiên ghi nhận chính thức nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Tại Điều 31 chương II của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” khẳng định một sự thật khách quan không thể chối cãi về sự tồn tại của nguyên tắc này như một quyền thiêng liêng của con người trong xã hội dân chủ pháp quyền. Trải qua hơn hai năm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2015 ra đời đã chính thức ghi nhận nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trở thành một nguyên tắc pháp luật đặc thù trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự thể hiện tinh thần chi phối đối với nhiều giai đoạn của hoạt động tố tụng: “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”.

Mặc dù, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm đã được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự và từng bước đi vào thực tiễn, song để nguyên tắc này thật sự phát huy đầy đủ giá trị trong bảo vệ quyền con người và đảm bảo công bằng tư pháp, cần có những giải pháp đồng bộ, thiết thực. Việc hoàn thiện cơ chế pháp lý, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như tăng cường giám sát xã hội chính là những hướng đi cần thiết nhằm bảo đảm nguyên tắc này được áp dụng thống nhất, hiệu quả và đúng tinh thần thượng tôn pháp luật.

Thứ nhất, nên đổi tên nguyên tắc tại Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” thành nguyên tắc “không ai bị kết án hai lần vì một hành vi phạm tội”.

Thứ hai, cần bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm” vì nguyên tắc này chưa được quy định, nhưng tinh thần của nguyên tắc đã được ghi nhận trong nhiều quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Ví dụ, điểm 4 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật” là một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự.Tuy nhiên, nội dung của nguyên tắc lại đang được hiểu theo những cách khác nhau trong tố tụng hình sự Việt Nam. Nội dung các công ước quốc tế và khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 chỉ khẳng định một người không bị kết án hai lần về một tội phạm chứ không quy định một người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần..., mà Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền kết án (tuyên có tội hoặc không có tội); các cơ quan tiến hành tố tụng khác không có quyền này. Vì vậy, liệu có thể hiểu, vì một lý do nào đó mà vụ án được đình chỉ trước khi Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, thì người có hành vi phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự lại? Không bị kết án hai lần về một tội phạm.

Thứ ba, Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam chưa ghi nhận các trường hợp ngoại lệ về các trường hợp hành vi phạm tội của họ đã được xét xử và đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực của tòa án nước ngoài nhưng việc xét xử chỉ nhằm mục đích bảo vệ người phạm tội khỏi phải gánh chịu trách nhiệm hình sự với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam hoặc trường hợp việc xét xử không được tiến hành một cách độc lập, khách quan và việc xét xử không đúng với mục đích đưa người phạm tội ra trước công lý, theo đó ngoại lệ của nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm tại Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự được hiểu là một chủ thể ngay cả khi có quyết định đình chỉ vụ án hoặc bản án có hiệu lực của Tòa án về một hành vi phạm tội vẫn có thể bị kết án về một hành vi phạm tội khác nếu họ thực hiện hành vi khác với hành vi đã bị kết án trước đó, thì vẫn bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với hành vi mới này, chứ không phải xét xử lại hành vi trước đó. Hành vi khác ở đây có thể là một tội phạm mới khác hoàn toàn với tội phạm đã bị kết án, hoặc có thể là tái phạm lại hành vi phạm tội đã bị kết án, hoặc cũng có thể là hành vi này được thực hiện trước đây, nhưng sau khi kết án mới phát hiện. Đã có ý kiến cho rằng quy định về ngoại lệ này chỉ mang tính hình thức mà chưa tác động nhiều đến nội dung nguyên tắc, chúng ta cần quy định rõ hơn.

Như vậy, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm không chỉ là một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự mà còn thể hiện rõ tính nhân văn, tiến bộ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Nguyên tắc này vừa là cơ chế bảo vệ vững chắc quyền con người, quyền công dân, vừa góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp, tránh sự lãng phí nguồn lực xã hội và hạn chế oan sai, chồng chéo trong xét xử. Việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này chính là minh chứng cho sự công bằng, minh bạch của nền tư pháp, đồng thời khẳng định cam kết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc bảo vệ công lý và quyền con người.

HOÀNG THÙY LINH

Tòa án Quân sự Quân khu 7

Các tin khác