/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

31/10/2025 07:49 |

(LSVN) - Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu khác nhau về người dưới 18 tuổi phạm tội và chỉ ra những đặc điểm mang tính chất tương đồng. Vì vậy, tác giả cho rằng “Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”.

Khái niệm về người dưới 18 tuổi phạm tội

Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần chung của Trường Đại học Luật Hà Nội do GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên có chỉ ra rằng: “Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm - sinh lí, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, luôn có xu hướng muốn tự khẳng định, muốn được tôn trọng nhưng lại dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, đễ bị kích động, bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thương nhưng lại dễ thay đổi, thích nghi với hoàn cảnh mới, dễ giáo dục, cải tạo...”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Cũng giống quan điểm trên, theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung) của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội do PGS. TS Mai Đắc Biên chủ biên có nêu rằng: “Người dưới 18 tuổi là những người đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển về thể chất và tinh thần. Đó là sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tâm - sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao”.

Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu khác nhau về người dưới 18 tuổi phạm tội và chỉ ra những đặc điểm mang tính chất tương đồng. Vì vậy, tác giả cho rằng “Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”.

Khái niệm Quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Nói về khái niệm quyết định hình phạt, PGS.TS. Dương Tuyết Miên cho rằng: “Quyết định hình phạt từ lâu đã là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự hoặc có thể là miễn hình phạt (trường hợp này, hoạt động quyết định hình phạt chấm dứt tại đây) hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phạt là việc xác định hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định đối với bị cáo”.

Qua đó, có thể hiểu khái niệm quyết định hình phạt nói chung là hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về việc lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể mà Bộ luật Hình sự quy định sau khi đã định tội danh đối với hành vi phạm tội. Để quyết định hình phạt chính xác, đúng pháp luật, ngoài việc định tội danh chính xác, Toà án (Hội đồng xét xử) còn phải xem xét toàn diện các cơ sở pháp lý được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS), tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các yếu tố khác có liên quan như tỉnh hình chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Về việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Toà án cũng phải căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự và đặc biệt là các quy định áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để đưa ra loại hình phạt, mức hình phạt phù hợp.

Về bản chất, việc quyết định hình phạt, đặc biệt là hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội hướng tới mục đích chính là giáo dục họ trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Hình phạt cũng có vai trò giáo dục cộng đồng, giúp mọi người tôn trọng pháp luật và đấu tranh chống lại tội phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có những ảnh hưởng trực tiếp đến họ và đó thường là một hậu quả không mong muốn. Lý do chính là vì việc áp dụng hình phạt tù làm giảm bớt quyền lợi và tự do cá nhân của người phạm tội, đồng thời gây tác động tiêu cực đến tâm lý và nhận thức của chính họ, gia đình họ, cũng như xã hội.

Từ khái niệm chung về quyết định hình phạt và những phân tích ở trên tác giả cho rằng: “Quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là việc Toà án căn cứ vào quy định pháp luật để đưa ra mức hình phạt tù có thời hạn cụ thể đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.

Đặc điểm quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Tác giả cho rằng, đây là một quy định tiến bộ, thể hiện rõ chính sách nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thể hiện việc hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi, chỉ xem xét hình phạt này khi các biện pháp giáo dục, cải tạo khác không còn hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi phạm tội.

Việc quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có cả những đặc điểm chung của việc quyết định hình phạt và cũng có đặc điểm riêng của nó. Nguyên tắc này tiếp tục được ghi nhận trong khoản 4, 5 Điều 12 Luật Tư pháp người chưa thành niên (TPNCTN). Điều này cho thấy sự khẳng định rõ ràng và nhất quán của pháp luật Việt Nam đối với chính sách hình sự mang tính nhân đạo dành cho đối tượng đặc thù này. Việc luật TPNCTN tiếp tục ghi nhận nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp, không chỉ mang ý nghĩa cụ thể hóa quy phạm mà còn góp phần củng cố cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi một cách đầy đủ và chính xác. Từ đó, tác giả thấy quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi mang tính quyền lực nhà nước và được thực hiện bởi cơ quan xét xử là Tòa án nhân dân: Chỉ có Tòa án - cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013) là cơ quan có đủ thẩm quyền để xét xử và quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi. Ngoài Toà án, không có cơ quan có thẩm quyền quyết định hình phạt. Hình phạt do Tòa án quyết định phải được tuyên công khai tại phiên toà và bằng một bản án. Trong quá trình xét xử và quyết định hình phạt tù, Toà án phải tuân thủ chặt chẽ các quy định về trình tự, thủ tục đã được quy định rõ ràng trong Bộ Luật Tố tụng hình sự.

Thứ hai, khác với đặc điểm của quyết định hình phạt phạt tù nói chung, quyết định hình phạt tù áp dụng đối với người dưới 18 tuổi nói riêng có đặc điểm riêng - đối tượng áp dụng là người dưới 18 tuổi. Do đó, việc đặt lợi ích của người bị xử lý lên là trên hết, coi mục đích giáo dục, giúp đỡ để họ có cơ hội sửa chữa sai lầm trở thành công dân tốt là mục tiêu hàng đầu. Đặc điểm này thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tạo cơ hội để đối tượng này sau khi lầm lỡ có cơ hội sửa chữa sai lầm, cải tạo bản thân.

Thứ ba, việc quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi có sự khoan hồng và giảm nhẹ hơn so với quyết định hình phạt tù đối với người trên 18 tuổi. Việc khoan hồng này xuất phát từ những nguyên tắc của việc quyết định hình phạt, dựa trên chính sách pháp luật quốc tế và đặc điểm tâm - sinh lý của người dưới 18 tuổi có sự khác biệt nhất định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là một đặc điểm rất riêng trong việc quyết định hình phạt tù áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đặc điểm này vừa thể hiện được nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vừa thể hiện được chính sách nhân đạo trong chính sách hình sự nước ta vừa thể hiện mục đích giáo dục, phòng ngừa là chính đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Thứ nhất, việc quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi giúp pháp luật được thực thi, tránh bỏ lọt tội phạm. Quyết định hình phạt tù đúng đắn sẽ hỗ trợ trong công tác phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi phạm tội, bao gồm cả tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra. Mục tiêu là phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công bằng, kịp thời các hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, đồng thời tránh bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền lợi người vô tội và tạo cơ hội để cải tạo, giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội.

Thứ hai, việc quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Chính vì vậy, ý nghĩa của việc quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi cũng không nằm ngoài việc giúp hình phạt này được thực thi một cách đúng đắn, góp phần bảo vệ công bằng xã hội, tăng cường pháp chế, trật tự pháp luật và kỷ cương xã hội, đạt được mục đích giáo dục, phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội là chính.

Thứ ba, quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước, phù hợp với pháp luật quốc tế. Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cuối cùng thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước đối với nhóm đối tượng này là hướng đến giáo dục, cải tạo, và tái hòa nhập xã hội. Đồng thời, các quy định này cũng đảm bảo sự phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC) và các chuẩn mực quốc tế, góp phần thể hiện trách nhiệm và sự hội nhập pháp lý của Việt Nam với thế giới.

Quan điểm của Đảng trong chính sách hình sự về quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phạm tội đã được đề cập trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị, bao gồm: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp; và Chỉ thị số 20/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. Gần đây nhất có thể kể đến là Nghị quyết số 27-NQ/TW, ban hành ngày 09/11/2022, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó nhấn mạnh việc hoàn thiện chính sách pháp luật theo hướng bảo vệ quyền con người, bảo đảm công bằng, nhân đạo và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.

Có thể thấy các Nghị quyết và Chỉ thị trên đã đưa ra những giải pháp cải cách tư pháp, xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện, với mục đích xử lý công bằng và nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015 đã có những điểm cải tiến đáng kể trong chính sách hình phạt đối với nhóm đối tượng này, như: thu hẹp phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với trẻ em, hoàn thiện nguyên tắc và mục đích áp dụng hình phạt, đồng thời đưa ra các biện pháp tư pháp phục hồi cụ thể và đa dạng hơn. Những thay đổi này phản ánh bước tiến lớn trong chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hướng tới sự công bằng và phù hợp với quyền lợi và sự phát triển của trẻ em, cụ thể:

Một là, về kĩ thuật lập pháp: Trong BLHS năm 2015, chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Chương XII với 18 điều (từ Điều 90 đến Điều 107) và được chia thành 05 mục. Trong đó, quyết định hình phạt tù được quy định chi tiết hơn tại Mục 4: Hình phạt (Điều 101. Tù có thời hạn). Việc quy định một mục riêng và Điều luật riêng về hình phạt tù là rất rõ ràng và khoa học, tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, tra cứu và áp dụng pháp luật.

Hai là, về nguyên tắc xử lý khi quyết định hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.” (Khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015). Đồng thời cũng hạn chế việc áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi những tội được miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, quy định cụ thể tại các điểm a, b khoản 2 Điều 91 về các điều kiện miễn TNHS (có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả …); bố sung các biện pháp giám sát, giáo dục (khiển trách, hoà giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn) nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc áp dụng chế định này.

Ba là, về nguyên tắc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS năm 2015 cũng đã quy định chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục như khiến trách; hoà giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Bên cạnh đó, khi xử phạt tù, Toà án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Đây là những quy định tiến bộ và nhân đạo, có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cách thức xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

2. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2025.

3. Luật Tư pháp người chưa Thành niên.

4. Nguyễn Ngọc Hoà (2022), Giáo trình Luật hình sự Việt nam (phần chung), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, trang 399.

5. Mai Đắc Biên (2020), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, trang 408.

6. Dương Tuyết Miên (2003), “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, luận án Tiến sĩ luật học, trang 63.

7. Trương Quang Vinh, Chính sách hình sự áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học số 4/2016, trang 79.

NGÔ ANH DŨNG

Tòa án Quân sự khu vực Thủ đô Hà Nội

HOÀNG ĐĂNG LUÂN

Viện Kiểm sát Quân sự khu vực 1 Bộ đội Biên phòng

Các tin khác