Trong bối cảnh hội nhập, các hộ kinh doanh ngày càng mở rộng quy mô, gia tăng năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị thị trường. Việc chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp không chỉ giúp chính các hộ nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn tạo động lực thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Nghiên cứu này sẽ phân tích những giải pháp hỗ trợ quá trình chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, góp phần hướng tới mục tiêu đạt 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 và đến năm 2030 có ít nhất 02 triệu doanh nghiệp được đặt ra trong Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ảnh minh họa.
1. Giới thiệu
Lịch sử cho thấy, hộ kinh doanh tại Việt Nam thực chất là một loại hình kinh doanh đặc biệt mang tính đặc thù của hệ thống tổ chức kinh doanh ở Việt Nam, đã được hình thành từ lâu đời, dưới nhiều tên gọi khác nhau tùy theo từng giai đoạn. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, do chính sách bế quan tỏa cảng và đời sống nông nghiệp, thương mại chưa phát triển, hộ gia đình là đơn vị kinh tế chủ đạo. Giai đoạn 1976 - 1986, kinh tế tư nhân bị hạn chế, chỉ một số hộ kinh doanh nhỏ lẻ được phép hoạt động. Từ sau Đổi mới (1986), thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, hộ kinh doanh dần được khuyến khích và có khung pháp lý rõ ràng hơn. Cho đến trước năm 1990, hộ kinh doanh tồn tại dưới hình thức hộ cá thể (1) và hộ tiểu công nghiệp (2) và bị giới hạn về việc tuyển dụng cũng như số lượng lao động làm thuê trực tiếp tại hộ. Sau khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990, hộ kinh doanh được công nhận với tư cách cá nhân kinh doanh hoạt động theo quy định của tại Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/03/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), nhưng chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của người kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh. Sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 được ban hành, hộ kinh doanh cá thể được xác định theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP, song không cho phép hộ kinh doanh được thường xuyên thuê lao động không phù hợp với thực tiễn hoạt động của hộ kinh doanh. Cho đến năm 2004, theo Nghị định 109/2004/NĐ-CP, quy định này được bãi bỏ để tạo điều kiện cho hộ kinh doanh phát triển. Trong giai đoạn 2005-2020, theo quy định của Nghị định về đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể lúc này được gọi là hộ kinh doanh (năm 2006) và chỉ được phép sử dụng dưới 10 lao động thường xuyên, nếu thuê từ 10 lao động thường xuyên trở lên thì phải chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức doanh nghiệp. Đến nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Các quy định về hộ kinh doanh tại Nghị định này với một số điểm mới bao gồm: (1) Quy định mới về hộ kinh doanh và giới hạn về chủ thể được phép thành lập hộ kinh doanh; (2) Được hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm; (3) Có thể thuê người quản lý hoạt động kinh doanh; (4) Mốc thời gian phải đăng ký thay đổi hộ kinh doanh; (5) Điều chỉnh thời gian tạm ngừng kinh doanh và thông báo tạm ngừng kinh doanh; (6) Hộ kinh doanh được thuê trên 10 lao động.
Như vậy, hộ kinh doanh là một tổ chức kinh tế do một cá nhân hoặc các thành viên trong hộ gia đình đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa là chủ hộ kinh doanh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình, dù đăng ký theo cá nhân hay hộ gia đình. Quá trình phát triển của hộ kinh doanh gắn liền với các giai đoạn kinh tế và hệ thống pháp luật, ngày càng hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn.
2. Thực trạng hoạt động của hộ kinh doanh tại Việt Nam và chính sách hỗ trợ chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, kết quả triển khai thực hiện
2.1. Hoạt động của hộ kinh doanh ở nước ta hiện nay
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến cuối năm 2021, cả nước có gần 5,18 triệu hộ kinh doanh (cơ sở kinh tế phi nông nghiệp), chiếm 85,2% tổng số đơn vị kinh doanh trong cả nước (có khoảng 896.000 doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế). Trước năm 2015, hộ kinh doanh là khu vực tạo việc làm lớn nhất tại Việt Nam, vượt trội so với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Hiện nay, dù không còn dẫn đầu, hộ kinh doanh vẫn cung cấp gần 9 triệu việc làm, chiếm 20% tổng việc làm toàn nền kinh tế, với tỷ lệ lao động từ 37 - 41% trong khu vực kinh doanh – cao hơn doanh nghiệp nhà nước (31 - 33%) và doanh nghiệp FDI (17 - 27%). Ngoài ra, hộ kinh doanh mang lại thu nhập ổn định, thường cao hơn cho lao động tự do ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đồng thời tiếp nhận lao động có kỹ năng thấp hơn so với doanh nghiệp. Về kinh tế, khu vực này đóng góp khoảng 30% GDP giai đoạn 2011 - 2020, gấp gần 03 lần doanh nghiệp ngoài nhà nước (10%), đồng thời huy động nguồn lực nhàn rỗi nhờ sự dễ dàng trong thành lập và vận hành, chủ yếu dựa vào vốn tự có. Với số lượng gấp 07 lần doanh nghiệp, hộ kinh doanh là mô hình khởi sự kinh doanh phổ biến, khơi dậy tinh thần doanh nghiệp nhờ tính đơn giản, chi phí thấp và quyền tự chủ cao.
Tuy nhiên, mô hình này còn bộc lộ hạn chế: kinh doanh nhỏ lẻ, năng lực quản lý và ứng dụng công nghệ yếu, dẫn đến năng suất thấp, đóng góp cho ngân sách và hiện đại hóa chưa rõ rệt. Khung pháp luật chưa hoàn thiện cũng cản trở tiềm năng phát triển, bản thân hộ kinh doanh chưa phát huy tối đa vai trò của mình trong nền kinh tế gây bất bình đẳng và méo mó môi trường kinh doanh khi nhiều hộ không chuyển đổi sang mô hình phù hợp hơn.
2.2. Chính sách hỗ trợ chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp và kết quả triển khai thực hiện
Hiện nay, các chính sách hỗ trợ hiện nay đối với hộ kinh doanh chủ yếu dưới hình thức trực tiếp, dựa trên những khó khăn mà hộ kinh doanh đang phải đối mặt như: Hỗ trợ hộ kinh doanh tại vùng khó khăn, hoặc bị tổn thương do biến động bất thường của nền kinh tế (như thiên tai, dịch bệnh…); hỗ trợ hộ kinh doanh theo từng lĩnh vực, tập trung vào hoạt động khuyến nông, khuyến công; hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp; hỗ trợ, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi hộ kinh doanh phát triển (nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ; mở rộng thị trường; tiếp cận và chuyển đổi số,…). Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2018) lần đầu tiên quy định chính thức về hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp ở cấp độ khung pháp lý cao nhất. Các hỗ trợ đáng chú ý đối với hộ kinh doanh khi chuyển đổi thành doanh nghiệp bao gồm (3):
- Hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp. Hộ kinh doanh đăng ký chuyển đổi thành doanh nghiệp có nhu cầu tư vấn, hướng dẫn các nội dung tại khoản 1 Điều này, gửi đề nghị hỗ trợ thông qua hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến tới Sở Kế hoạch và Đầu tư. Hồ sơ đề nghị gồm: Bản sao hợp lệ Giấy đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh; Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký mã số thuế; Bản sao hợp lệ chứng từ nộp lệ phí môn bài, các loại thuế và khoản nộp ngân sách nhà nước khác (nếu có), tờ khai thuế trong thời hạn 01 năm trước khi chuyển đổi.
- Hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp, công bố thông tin doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp lần đầu tại cơ quan đăng ký kinh doanh, miễn phí công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp lần đầu tại Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia.
- Hỗ trợ lệ phí môn bài. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.
- Hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được tư vấn, hướng dẫn miễn phí về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.
- Miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai.
Để được hưởng loạt hỗ trợ nêu trên, hộ kinh doanh phải có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.
Như vậy, khung pháp luật liên quan đến khuyến khích và hỗ trợ chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với đặc điểm của khu vực này.
Thứ nhất, quy định về chuyển đổi giữa hộ kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp đã được cụ thể hóa trong Luật Doanh nghiệp 2020. Theo đó, hộ kinh doanh có thể chuyển đổi thành doanh nghiệp mà không cần giải thể trước khi thành lập doanh nghiệp mới, giúp quá trình chuyển đổi trở nên thuận lợi hơn.
Thứ hai, các chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh, đặc biệt là các biện pháp thúc đẩy chuyển đổi thành doanh nghiệp, ngày càng được thiết kế sát với thực tiễn. Điều này tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh thực hiện thủ tục chuyển đổi dễ dàng hơn. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cũng góp phần thúc đẩy số lượng hộ kinh doanh đăng ký trở thành doanh nghiệp, giúp quá trình chuyển đổi thực chất và hiệu quả hơn.
Kết quả cho thấy, mặc dù chính sách hỗ trợ khá rõ ràng nhưng thực tế, số lượng hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Nhiều địa phương đã ban hành chính sách riêng nhằm khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi, nhưng kết quả chưa đạt kỳ vọng.
Rõ ràng việc chuyển đổi mô hình kinh doanh được xem là quá trình thay đổi hình thức tổ chức nhằm phù hợp với định hướng phát triển, tối ưu hóa cơ hội đầu tư và đảm bảo tính bền vững trong hoạt động kinh doanh. Khi chuyển đổi từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh có thể mở rộng quy mô, nâng cao năng lực huy động vốn và thay đổi cơ chế chịu trách nhiệm. Sau khi chuyển đổi, doanh nghiệp mới sẽ kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ pháp lý, các khoản nợ, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản của hộ kinh doanh trước đó.
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp vẫn gặp nhiều trở ngại. Bản thân các chủ hộ kinh doanh còn e ngại do chưa nắm rõ các quy định pháp luật về doanh nghiệp, chưa quen với việc quản lý sổ sách kế toán, trong khi thủ tục chuyển đổi còn phức tạp và mức thuế doanh nghiệp có thể cao hơn so với hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, các yếu tố như doanh thu hằng năm, thời gian hoạt động, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, trình độ chuyên môn của chủ hộ, lĩnh vực kinh doanh và khả năng tiếp cận tài chính cũng ảnh hưởng lớn đến quyết định chuyển đổi.
Đáng chú ý, một số hộ kinh doanh sau khi chuyển đổi thành doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp đã quay trở lại mô hình hộ kinh doanh. Nguyên nhân chính là do chính sách hỗ trợ chưa đủ hấp dẫn, trong khi hộ kinh doanh vẫn có nhiều lợi thế, như tính linh hoạt và quy trình quản lý đơn giản hơn. Ngoài ra, nhiều hộ kinh doanh chưa có đầy đủ thông tin về mô hình doanh nghiệp, dẫn đến việc đánh giá chưa chính xác về lợi ích và thách thức của quá trình chuyển đổi. Một số trường hợp, hộ kinh doanh chuyển đổi chỉ để tận dụng các chính sách hỗ trợ ngắn hạn, nhưng sau đó nhận thấy mô hình doanh nghiệp không phù hợp với điều kiện thực tế của mình, nên quyết định quay trở lại hình thức hộ kinh doanh.
3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi này đạt kết quả tốt hơn
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đang tích cực thực hiện các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đồng thời cải cách thể chế để nâng cao năng lực cạnh tranh. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, nhằm tạo ra một lực lượng doanh nghiệp chính quy, đủ sức thích ứng với môi trường kinh doanh hiện đại. Quá trình này đặt ra yêu cầu cấp thiết về các giải pháp thiết thực và hiệu quả.
Một là, cần có các chính sách hỗ trợ toàn diện, bao gồm cải cách thủ tục hành chính, ưu đãi về tài chính, thuế và tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh doanh tiếp cận thị trường, khoa học – công nghệ. Đặc biệt, cần đơn giản hóa quy trình và hỗ trợ thực hiện các thủ tục chuyển đổi từ hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp, trong đó chú trọng cơ chế chuyển giao hoặc kế thừa các quyền và nghĩa vụ từ hộ kinh doanh sang doanh nghiệp được thành lập, bao gồm giấy phép, hợp đồng lao động, hợp đồng vay vốn và các nghĩa vụ pháp lý khác.
Hai là, cần có một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chủ trì và xây dựng hệ thống tiêu chí giám sát, đánh giá kết quả thực hiện của các chương trình, dự án hỗ trợ, đồng thời đề xuất sửa đổi nếu cần thiết. Cơ quan này sẽ định kỳ báo cáo kết quả thực hiện và đánh giá hiệu quả của các chính sách hỗ trợ lên các cơ quan quản lý liên quan nhằm đảm bảo tính minh bạch và nâng cao hiệu quả triển khai.
Ba là, việc hỗ trợ, tư vấn thực chất và hiệu quả về quản trị công ty cho các doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh cũng là một giải pháp quan trọng. Việc này không chỉ giúp các doanh nghiệp thay đổi phương thức quản lý, điều hành theo hướng chuyên nghiệp hơn mà còn nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động trong dài hạn. Đồng thời, việc nâng cao nhận thức, tư vấn và hướng dẫn cho các hộ kinh doanh về lợi ích cũng như thách thức của quá trình chuyển đổi là yếu tố then chốt, giúp đảm bảo quá trình này diễn ra bền vững.
Bốn là, trong dài hạn, một hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp vững chắc, cùng với khung pháp lý phù hợp, sẽ tạo nền tảng để khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.
[1] Hộ cá thể có tư liệu sản xuất và các vốn khác là sở hữu của người chủ đứng tên đăng ký kinh doanh; chủ đăng ký kinh doanh phải là người lao động trực tiếp; những người lao động khác phải là bố mẹ, vợ chồng, các con và nếu là người thân thì phải có tên trong sổ đăng ký hộ khẩu của người chủ đăng ký kinh doanh; thu nhập sau khi đã đóng thuế thuộc sở hữu của chủ hộ. Hộ cá thể do Uỷ ban nhân dân phường, xã xét cấp đăng ký kinh doanh.
[2] Hộ tiểu công nghiệp (xưởng, cửa hàng,...) có tư liệu sản xuất và các vốn khác thuộc sở hữu của chủ hộ; được thuê mướn lao động theo hợp đồng thoả thuận giữa chủ và người làm thuê; chủ hộ là người lao động trực tiếp hoặc đóng vai trò chính về kỹ thuật sản xuất và tự điều hành sản xuất kinh doanh; thu nhập sau khi đóng thuế và trả công cho người làm thuê thuộc sở hữu của chủ hộ. Hộ tiểu thủ công nghiệp do Uỷ ban nhân dân quận, huyện xét cấp đăng ký kinh doanh
[3] Nghị định số 80/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tài liệu tham khảo
Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014 và 2020
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14
Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2021 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/1/2021 về đăng ký doanh nghiệp
MPI (2024), Dự thảo Đề án “Nghiên cứu đề xuất khung pháp luật đối với hộ kinh doanh nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động và cơ chế, chính sách thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp”
CIEM (2021), Một số giải pháp phát triển hộ kinh doanh theo hướng bền vững ở Việt Nam.
CIEM và MBI (2017), “Chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam. Thực trạng và khuyến nghị chính sách, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
VERP, 2021, Giải pháp thuận lợi hóa hoạt động sản xuất - kinh doanh cho hộ kinh doanh Việt Nam
ThS LÊ MINH HOÀNG
Giảng viên Đại học Tôn Đức Thắng