Ảnh minh họa.
Bối cảnh và nhận diện vấn đề cần đặt ra các giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư ở Việt Nam
Tại Việt Nam hiện nay, đào tạo nghề Luật sư ngày càng được mở rộng về quy mô, đổi mới về chương trình, phương pháp giảng dạy, tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tư pháp, góp phần cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm 2020, Đề án phát triển đội ngũ Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020; góp phần thực hiện thành công chính sách xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp ở từng địa phương và trên phạm vi toàn quốc; góp phần tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước [2].
Trong bối cảnh triển khai thực hiện một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…” [3]. Trong đó có nhiệm vụ tiếp tục xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp [4] với trọng tâm là đào tạo nghề Luật sư đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng; phục vụ đắc lực cho việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, rất cần thiết phải nhận diện được những vấn đề tiếp tục được đầu tư để cải thiện, đổi mới, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư ở Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với thẩm quyền quản lý nhà nước về đào tạo nghề Luật sư. Với đặc thù về địa vị pháp lý của Học viện Tư pháp thì hiện tại, khá nhiều những công việc thuộc hoạt động đào tạo nghề Luật sư tại cơ sở đào tạo vẫn đang được quản lý bởi thẩm quyền của Bộ Tư pháp, chẳng hạn như Chương trình khung về đào tạo nghề Luật sư (gọi tắt là Chương trình). Theo quy định của Luật Luật sư hiện hành, Chương trình do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định. Quá trình sửa đổi, bổ sung, phát triển mới chương trình đào tạo được thực hiện qua các khâu, các quy trình từ cấp bộ môn, đến cấp khoa, cấp trường (học viện) và lên tới cấp bộ chủ quản đòi hỏi khá nhiều thời gian cơ học. Cho dù giảng viên hay cơ sở đào tạo khi tiếp nhận phản hồi tích cực từ phía người học cũng như trong quá trình vận hành chương trình có nhận thấy một số nội dung cần chỉnh sửa, cập nhật thì cũng không thể tự mình thay đổi nội dung giảng dạy đã được quy định, dù đó là theo hướng tốt hơn. Việc rà soát, thay đổi, phát triển chương trình đào tạo thường có “độ trễ” so với nhu cầu thực tiễn. Điều này kết hợp với thực tiễn hiện nay các cơ sở đào tạo công lập đã chuyển mạnh sang cơ chế tự chủ toàn diện về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính và tài sản thì quy định nêu trên thực sự là điều cần phải được nghiên cứu điều chỉnh.
Thứ hai, đối với yêu cầu đổi mới các chương trình đào tạo nghề Luật sư. Chương trình đào tạo nghề Luật sư hiện nay tại Học viện Tư pháp xét về cơ cấu khá đa dạng [5]. Các chương trình này theo quan điểm khoa học của chúng tôi tới đây cần được nghiên cứu để hoàn thiện thêm về: mục tiêu đào tạo; thời lượng và sự phân bổ thời lượng của các chương trình trong quá trình thực hiện; thiết kế nội dung cơ bản/chuyên sâu của chương trình; tính học thuật, kỹ năng phù hợp của nội dung các bài học; thiết kế, tổ chức lớp học/giờ học trong thực hiện chương trình đào tạo.
Thứ ba, đối với yêu cầu thực hiện nguyên lý đào tạo. Trong số hàng loạt các vấn đề liên quan đến hoạt động giảng dạy thì vấn đề hiểu và áp dụng đúng đắn các nguyên lý dạy học là vô cùng quan trọng. “Ở các nước Âu, Mỹ, thuật ngữ “học tập tích cực” (active learning) được sử dụng, nhưng thuật ngữ “dạy học” không được dùng. Phía sau của thuật ngữ là do Việt Nam tự thêm vào” [6]. Cốt lõi của tư tưởng giáo dục “học tập tích cực” là cách tư duy cho rằng, nếu người học chỉ biết nghe giảng là chưa đủ mà cần phải đưa vào nhiều hoạt động phong phú, như thảo luận nhóm, trải nghiệm thực tế. Điều quan trọng của “học tập tích cực” không phải là kỹ thuật dạy học hay phương pháp giảng dạy (teaching method). Học tập tích cực không đơn thuần là lắp ghép các hoạt động học tập diễn ra trong lớp học mà là thái độ giữa học viên với giảng viên để tiến hành giờ học một cách thực sự hiệu quả. Sự dịch chuyển từ tư duy dạy học cầm tay chỉ việc sang tư duy coi trọng việc tự học để đào tạo năng lực hành nghề và năng lực làm việc của học viên là cốt lõi của thực hiện tốt nguyên lý đào tạo mà chúng tôi hướng đến. Đây cũng là xu thế chung của giáo dục đào tạo hiện đại trên thế giới.
Thứ tư, đối với vấn đề trách nhiệm xã hội của chủ thể quản lý nhà nước về đào tạo nghề Luật sư, cơ sở đào tạo, tổ chức hành nghề Luật sư /tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư ở từng địa phương và trên toàn quốc đối với chất lượng/hiệu quả đào tạo nghề Luật sư. Trong thời gian vừa qua, khi đề cập tới vấn đề chất lượng đào tạo nghề Luật sư thì đa số các ý kiến đánh giá, nhận xét đều tập trung vào trách nhiệm của cơ sở đào tạo. Điều này đúng, nhưng chưa đầy đủ và toàn diện. Bởi vì, so với các cơ sở đào tạo công lập khác trong khối các cơ sở đào tạo ngành luật, Học viện Tư pháp là đơn vị đào tạo đặc thù về địa vị pháp lý, bối cảnh, điều kiện, môi trường, nguồn lực giáo dục đào tạo. Điểm mấu chốt trong các đặc thù của hệ thống đào tạo nghề Luật sư hiện nay là vai trò, chức năng của từng bên liên quan theo luật hiện hành. Điều này cho thấy, chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề Luật sư tại Học viện Tư pháp hiện nay cũng như thời gian tới luôn chịu sự tác động của yếu tố khách quan, như hệ thống thể chế, quản lý nhà nước về đào tạo nghề Luật sư; vai trò phối hợp tham gia hoạt động đào tạo của các tổ chức hành nghề Luật sư /tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư. Vì vậy, khi đề cập vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư, cách tiếp cận mới là phải chú ý đến vấn đề xây dựng, duy trì, phát triển mối quan hệ hài hòa, hiệu quả và cơ chế thực hiện trách nhiệm xã hội giữa các bên trong bảo đảm quyền lợi cho người học, đồng thời thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình công bằng, khách quan, công khai về chất lượng đào tạo nghề Luật sư.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư giai đoạn 2021-2030
Định hướng căn bản cho những đề xuất về giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư giai đoạn 2021-2030 là: (i) phải bảo đảm sự tổng thể, lâu dài, khả thi nhưng vẫn có tính đột phá; (ii) thực hiện hiệu quả mục tiêu, chiến lược, tầm nhìn phát triển hệ thống đào tạo nghề Luật sư giai đoạn 2021-2030 ở Việt Nam; (iii) bảo đảm sự phát triển hiện đại, hội nhập quốc tế về đào tạo nghề Luật sư và Cách mạng công nghiệp 4.0; (iv) đào tạo nghề Luật sư trở thành bộ phận quan trọng để phát triển môi trường giáo dục nghề nghiệp thân thiện; tôn trọng công lý; sự thượng tôn của pháp luật; hướng vào lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội.
Phù hợp với định hướng nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp căn bản như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện về thể chế điều chỉnh hoạt động đào tạo nghề Luật sư. Cụ thể, nghiên cứu sửa đổi quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với chương trình đào tạo nghề Luật sư tại khoản 4 Điều 12 Luật Luật sư sửa đổi năm 2012. Chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp là phê duyệt Chương trình khung đào tạo nghề Luật sư trên cơ sở đề xuất của cơ sở đào tạo nghề Luật sư thay vì Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định Chương trình khung như hiện nay. Trong điều kiện thực hiện cơ chế tự chủ toàn diện áp dụng cho cơ sở đào tạo công lập như Học viện Tư pháp, việc quy định như hiện hành làm cho chương trình đào tạo bị “bó cứng”, hạn chế quyền tự chủ về chuyên môn học thuật của một cơ sở đào tạo công lập. Bộ chủ quản có thể thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước đối với chất lượng giáo dục đào tạo nghề Luật sư bằng cơ chế quản lý, kiểm soát đầu ra thông qua hệ thống tiêu chí kiểm soát về chất lượng.
Bên cạnh đó, chính sách giáo dục đào tạo nghề Luật sư cần có sự cam kết dành quan tâm nhiều hơn nữa đến quyền lợi học tập và nhu cầu được đào tạo suốt đời của người tham gia đào tạo nghề; công khai hóa cơ chế thực thi trách nhiệm xã hội và trách nhiệm giải trình về chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề Luật sư. Theo chúng tôi, giá trị cốt lõi của đào tạo nghề Luật sư giai đoạn 2021-2030 là:
- Lấy việc học và lợi ích học tập của học viên làm trung tâm của hệ thống giáo dục đào tạo; đào tạo năng lực chuyên môn nghề nghiệp gắn với năng lực làm việc trong điều kiện hội nhập nền kinh tế chia sẻ và quốc tế hóa cao;
- Thúc đẩy và phát triển sự hợp tác đa bên trong hoạt động giáo dục đào tạo;
- Tôn trọng, đề cao giá trị của công lý, sự thượng tôn pháp luật, tính chuyên nghiệp và trách nhiệm xã hội trong các nội dung giáo dục đào tạo;
- Bảo đảm quyền được tham gia của người học trong mọi hoạt động giáo dục đào tạo của nhà trường và tổ chức hành nghề;
- Tiếp cận hiệu quả thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
Thứ hai, giải pháp về đổi mới và thực hiện chương trình đào tạo. Trước hết, việc rà soát, sửa đổi, bổ sung chương trình với mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư giai đoạn 2021-2030 phải rõ ràng, công khai về tư tưởng giáo dục “lấy người học làm trung tâm”; coi “học tập tích cực” làm nền tảng vững chắc để thực hiện phương pháp giáo dục nghề nghiệp cho người học, tạo sự kết nối giữa đào tạo lý thuyết kỹ năng trong nhà trường với đào tạo thực hành nghề trong thực tiễn. Tất cả hướng đến mục tiêu, sản phẩm đầu ra của quá trình đào tạo phải là những người có năng lực hành nghề Luật sư, có năng lực làm việc trong điều kiện xã hội luôn biến đổi, có năng lực phát triển hài hòa các mối quan hệ nghề nghiệp và xã hội.
Về nội dung, các kiến thức, kỹ năng trong các môn học thuộc chương trình đào tạo nghề Luật sư phải tích hợp hợp lý, hài hòa giữa kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của Luật sư với kỹ năng sống và làm việc trong điều kiện nền kinh tế chia sẻ/cạnh tranh cao/nhu cầu hội nhập quốc tế và xã hội số hóa. Các nội dung học tập phải là quá trình tạo sự “biến đổi” về năng lực tư duy, năng lực hành động thực tế của học viên một cách có chủ đích. Học viên qua đào tạo nghề Luật sư tại Học viện Tư pháp và qua tập sự hành nghề tại tổ chức hành nghề Luật sư phải được nâng lên về cả năng lực nhận thức, kỹ năng hành nghề, kỹ năng làm việc trong thế kỷ XXI. Đây là sự thay đổi về chất của chương trình đào tạo, từ chương trình chú trọng trang bị kiến thức, kỹ năng mang tính pháp lý/tố tụng sang chương trình đào tạo hài hòa giữa kỹ năng hành nghề Luật sư và kỹ năng làm việc của Luật sư trong môi trường xã hội số hóa (người hành nghề không chỉ có khả năng tương tác với người khác mà còn có khả năng tương tác và làm chủ công nghệ số). Sự thay đổi này là tất yếu khách quan nếu hoạt động đào tạo Luật sư ở Việt Nam không muốn bị trở nên tụt hậu so với yêu cầu phát triển của giáo dục đào tạo nghề Luật sư trong khu vực và toàn cầu.
Về cơ cấu và hình thức, các chương trình đào tạo nghề Luật sư trong thời gian tới phải khắc phục được sự phân tán, thiếu liên thông và trùng lặp. Cùng với đó, cần bổ sung một dung lượng đáng kể các kiến thức, kỹ năng làm việc của người hành nghề trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý, phù hợp và kết nối mạnh với thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam (theo cả hai nghĩa thị trường trong nước và nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cá nhân/tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam). Để làm được điều này, giải pháp mang tính chiến lược là nghiên cứu, sắp xếp lại các khối kiến thức/kỹ năng cơ bản của các chương trình hiện có vào từng module, sắp xếp theo lĩnh vực pháp luật/tố tụng, đúng với tính chất của đào tạo tín chỉ. Các module học tập người học có thể tiếp cận theo nguyên tắc được lựa chọn linh hoạt (trong khuôn khổ của chương trình khung) với hình thức học nhanh/học chậm (thích ứng nhu cầu và điều kiện thực tế của người học). Chương trình còn có khả năng đáp ứng định hướng nghề nghiệp cá nhân của học viên theo nguyên lý cá thể hóa việc học tập và quyền được học tập suốt đời. Chương trình đổi mới cần phát huy tối đa sự tham gia của người học trong quá trình xây dựng chương trình thông qua các kênh đối thoại đa dạng. Như vậy, về hình thức, có thể có các module đào tạo khác nhau ứng với Luật sư tranh tụng, Luật sư tư vấn trong từng lĩnh vực pháp luật/tố tụng. Mặt khác, nội dung bên trong của từng module phải tích hợp được các kiến thức, kỹ năng mềm (được xác định là kỹ năng làm việc của Luật sư để phân biệt với kỹ năng hành nghề thuần túy mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ).
Thứ ba, giải pháp về phát triển năng lực giảng viên. Với tư duy giảng viên là trụ cột, là linh hồn, là “máy cái” trong hệ thống đào tạo nghề Luật sư, chúng tôi cho rằng, tất cả những ý tưởng đổi mới dù tích cực, tốt đẹp thế nào thì cũng trở nên vô nghĩa khi không thay đổi thực chất hoạt động, năng lực giáo dục đào tạo của giảng viên. Khi đề xuất giải pháp về phát triển năng lực giảng viên, chúng tôi chủ yếu hướng vào những nội dung mà chúng tôi nhận thấy đang là điểm cần được cải thiện của đội ngũ giảng dạy nghề Luật sư hiện nay:
Một là, cần phải đầu tư để nâng cao năng lực tiếp cận và thực hiện chương trình đào tạo cho tất cả giảng viên tham gia đào tạo nghề Luật sư.
Hai là, cần đào tạo, đào tạo lại cho giảng viên để giảng viên có được năng lực hỗ trợ/quan tâm nhu cầu học tập của học viên; thiết lập và phát triển quan hệ giữa giảng viên và học viên trong hoạt động giáo dục đào tạo nghề Luật sư. Thực tế thời gian qua cho thấy, sự quan tâm/hỗ trợ của giảng viên đối với quá trình cải thiện chất lượng học tập của học viên còn hạn chế, làm cho việc đánh giá kết quả học tập của học viên chỉ là những điểm số theo quy chế đào tạo. Mối quan hệ giữa người dạy và người học như vậy khó có thể có môi trường học tập làm cho sự học tập của học viên trở thành niềm say mê, hứng khởi. Những kỹ năng làm việc căn bản của giảng viên, đơn cử như kỹ năng lắng nghe chủ động để hỗ trợ học viên học tập chưa được chú trọng. Để cải thiện tình trạng này, cần kết hợp đào tạo, bồi dưỡng cho giảng viên kỹ năng thiết lập, duy trì, phát triển quan hệ với học viên với kỹ năng hỗ trợ/dẫn dắt/huấn luyện việc học tập của học viên. Đây là năng lực không thể thiếu và yếu đối với bất cứ một giảng viên nào khi tham gia hoạt động giáo dục đào tạo nghề Luật sư và cần được thể chế hóa vào khung năng lực của giảng viên tham gia đào tạo nghề Luật sư.
Ba là, cần đào tạo bài bản và cập nhật thường xuyên cho giảng viên phương pháp giảng dạy mang lại hiệu quả tích cực cho việc thực hiện chương trình đào tạo nghề Luật sư. Đây là giải pháp cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Đào tạo kết hợp với tổ chức các diễn đàn thực hiện hoạt động thao giảng phải được coi là kênh đào tạo, đánh giá giảng viên, là biện pháp cải thiện chất lượng giảng dạy cho giảng viên. Áp dụng thường xuyên các kênh đánh giá, phản hồi kết quả dạy học đa phương thức nên được triển khai thực hiện với tính chất là một trong số kênh/tiêu chí đánh giá giảng viên. Chất lượng giảng dạy của giảng viên phải được tiếp cận từ nhiều phương diện/nhiều bên liên quan nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng giảng dạy. Đó là mục tiêu chính của vận hành các kênh đánh giá, phản hồi về hoạt động giảng dạy chứ không chỉ đề cao mục tiêu phân loại/xếp loại thi đua/đánh giá viên chức.
Thứ tư, giải pháp về cơ chế thực hiện trách nhiệm xã hội đối với chấtlượng/hiệu quả đào tạo nghề Luật sư. Vấn đề này theo chúng tôi, cần được tiếp cận ở phương diện trách nhiệm xã hội của cả cơ quan chủ quản/cơ sở đào tạo nghề luât và các tổ chức hành nghề/tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư. Xây dựng cơ chế phối hợp đa bên trên cơ sở chức năng, thẩm quyền, quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của từng bên là giải pháp trước mắt cũng như về lâu dài cho vấn đề này.
=========================== [1] Bài viết là sản phẩm của đề tài nghiên cứu khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề Luật sư tại Học viện Tư pháp” theo Quyết định số 187/QĐ-HVTP ngày 27/01/2021 của Giám đốc Học viện Tư pháp về việc giao nhiệm vụ thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. [2] Theo Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” của Ban cán sự Đảng bộ, Bộ Tư pháp, chỉ tính riêng khoảng thời gian 07 năm thực hiện Quyết định số 2083/QĐ-TTg, đào tạo nghề Luật sư đạt 94,45% chỉ tiêu đề ra (tuyển sinh được 16.530 học viên/17.500 chỉ tiêu, bình quân 2.361/2.500 chỉ tiêu/năm. [3] Trích “Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội 13”, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. [4] Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “...Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp”. [5] Chương trình đào tạo nghề Luật sư gồm: Chương trình đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, Luật sư ; Chương trình đào tạo nghề Luật sư theo hệ thống tín chỉ; Chương trình đào tạo Luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; Chương trình đào tạo nghề Luật sư chất lượng cao. [6] Tanaka Yushitaka - Nguyễn Quốc Vương dịch, “Cải cách giáo dục Việt Nam”, NXB Phụ nữ, tr.150. |
Tiến sĩ LÊ MAI ANH
Giảng viên chính, nguyên Phó Giám đốc Học viện Tư pháp
PGS. TS. NGUYỄN MINH HẰNG
Giảng viên cao cấp, Trưởng khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp
Quy trình thực hiện dự án có sử dụng đất, đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách phải thông qua đấu thầu