/ Trao đổi - Ý kiến
/ Hoàn thiện quy định về người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện quy định về người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam

12/02/2025 07:23 |1 tháng trước

(LSVN) - Trong vụ án hình sự, người làm chứng là một trong những tư cách xuất hiện ở hầu hết các vụ án hình sự. Người làm chứng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan, làm rõ các tình tiết, các vấn đề, các khía cạnh của vụ án. Trong nhiều vụ án, người làm chứng đóng vai trò khá then chốt, nếu không có thì không thể xác định và giải quyết được. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định về người làm chứng với rất nhiều quy định khác nhau nhằm bảo đảm sự chính xác, đầy đủ. Tuy nhiên, quy định về người làm chứng vẫn còn một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện.

Khái quát về người làm chứng trong tố tụng hình sự

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, người làm chứng được hiểu là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

Những người sau đây không được làm chứng:

- Người bào chữa của người bị buộc tội;

- Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn…”.

Theo quy định trên thì người dưới 18 tuổi cũng có thể xác định là người làm chứng, kể cả trẻ em, miễn là đáp ứng đủ điều kiện của người làm chứng trong tố tụng hình sự. Vụ án có người làm chứng dưới 18 tuổi phải được tiến hành theo thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, tuân thủ các nguyên tắc riêng. Trong đó, việc xét xử vụ án có người làm chứng dưới 18 tuổi phải đặc biệt chú ý quy định về Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa và thành phần Hội thẩm. Cụ thể thủ tục này được quy định tại Chương XXVIII BLTTHS năm 2015; Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC; Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH, riêng đối với các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi còn có Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Người làm chứng có các quyền và nghĩa vụ như sau:

Quyền của người làm chứng bao gồm: Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia làm chứng; được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật.

Nghĩa vụ của người làm chứng là: Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải. Trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó.

Một số hạn chế, bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Vấn đề miễn trừ làm chứng

Miễn trừ làm chứng là việc xác định các chủ thể không được làm chứng, các trường hợp không được làm chứng, được từ chối làm chứng. Người làm chứng có vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự, nhưng không vì thế mà người làm chứng được xác định một cách tùy tiện. Việc xác định phải dựa trên cơ sở kết quả, hiệu quả của việc làm chứng.

Về chủ thể không được làm chứng, Điều 66 BLTTHS quy định có hai đối tượng không được làm chứng gồm: Người bào chữa của người bị buộc tội và người do nhược điểm về tâm thân hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn. Ngoài hai trường hợp này, bất kỳ ai cũng có thể trở thành người làm chứng, trong đó có thể có người thân tích, người lệ thuộc của bị cáo, bị hại… Khi những người này trở thành người làm chứng, cơ sở nào bảo đảm chắc chắn rằng họ sẽ khai báo khách quan, trung thực.

Mặc dù pháp luật đã dự liệu tình huống, có quy định buộc người làm chứng phải cam đoan khai trung thực, có chế tài xử lý đối với hành vi khai báo không trung thực của người làm chứng, nhưng xét trên mối quan hệ ruột thịt, mối quan hệ sâu sắc giữa người với người, sự lệ thuộc “ngầm”, góc độ tình cảm… thì điều này là chưa đủ để ngăn chặn hành vi khai báo không trung thực, không khách quan. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, tác giả cho rằng cần sửa đổi khoản 2 Điều 66 BLTTHS như sau: “c, Người có căn cứ rõ ràng rằng lời khai làm chứng của họ sẽ không vô tư, khách quan”.

Tiếp theo, về quyền miễn trừ khai báo, quyền này được rất nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận. Lý do miễn trừ khai báo chỉ đơn giản là “lý do cá nhân” và người tiến hành tố tụng phải giải thích cho người đó về quyền này, nếu không giải thích, lời khai của họ không được xem là chứng cứ [1].

Tại Việt Nam, khoản 5 Điều 66 BLTTHS quy định người làm chứng từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 382 Bộ luật Hình sự, bất kỳ người làm chứng nào khai báo gian dối đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tại Điều 383 thì người làm chứng (trừ ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng) từ chối khai báo sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, mặc dù đã có, nhưng quy định về phạm vi miễn trừ khai báo của pháp luật Việt Nam là rất hạn chế. Quyền miễn trừ khai báo của người làm chứng phải xuất phát từ mối quan hệ thân thích giữa người làm chứng với người bị buộc tội, những lời khai của người làm chứng chống lại bản thân họ hoặc người thân thích, người đại diện, gia đình của họ trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, cần có quy định mở rộng phạm vi miễn trừ người làm chứng khai báo, đồng thời có quy định thống nhất giữa việc từ chối khai báo và khai báo gian dối liên quan đến người thân thích.

Về áp dụng thủ tục tố tụng trong trường hợp có liên quan đến người làm chứng dưới 18 tuổi

Về việc xác định vụ án có thuộc trường hợp có người làm chứng dưới 18 tuổi hay không? Đây là trường hợp vụ án chỉ có 01 người làm chứng là người dưới 18 tuổi, được lấy lời khai đầy đủ, rõ ràng trong hồ sơ vụ án, ngoài ra không còn đối tượng nào dưới 18 tuổi. Đối với trường hợp này, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án nhận thấy không cần triệu tập họ tham gia phiên tòa vẫn giải quyết vụ án khách quan, toàn diện. Vậy, khi Tòa án không triệu tập người đó tham gia phiên tòa thì có áp dụng thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi hay không.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, do không triệu tập, tức là họ không tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử vụ án này, không có mặt tại phiên tòa nên không áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.

Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù Tòa án không triệu tập, nhưng về bản chất người đó vẫn là người làm chứng - một thành phần tham gia tố tụng, do đó các quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phải được bảo đảm như Thẩm phán phải là người có kinh nghiệm, phải có ít nhất một Hội thẩm là giáo viên…

Quan điểm của tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất. Việc triệu tập hay không triệu tập là thẩm quyền của Chủ tọa phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, mặc dù người làm chứng là một tư cách tham gia tố tụng nhưng chỉ khi người làm chứng được triệu tập thì bản thân người đó mới được coi là “tham gia tố tụng”, lúc này mới đặt ra vấn đề bảo đảm quyền, nghĩa vụ và cần thiết phải áp dụng thủ tục tố tụng thân thiện.

Về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng.

Thứ nhất, BLTTHS không quy định người làm chứng có quyền tranh luận tại phiên tòa. Tại phiên tòa, kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền tranh luận, nhưng người làm chứng thì không có quyền này. Điều này là không phù hợp, không tương xứng, phù hợp với vị trí của người làm chứng, không bảo đảm khai thác hết vai trò, ý nghĩa của người làm chứng tham gia tố tụng. Người làm chứng, với tư cách là người biết được tình tiết liên quan, do đó, hoàn toàn có đủ nhận thức và điều kiện để tranh luận, đối đáp với kiểm sát viên, người tham gia tố tụng khác để Hội đồng xét xử (HĐXX) có cách nhìn khách quan nhất, đánh giá đầy đủ nhất về vụ án. Hiện nay, việc không quy định cho người được tranh luận đã dẫn đến việc tất cả các phiên tòa hình sự đều không có sự tranh luận của người làm chứng. Do đó, cần quy định cho người làm chứng có quyền tranh luận để khi lời khai của người này có mâu thuẫn với lời khai của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác thì người làm chứng sẽ tranh luận với họ, từ đó góp phần làm sáng tỏ lời khai, tình tiết vụ án.

Thứ hai, người làm chứng không có quyền trình bày quan điểm, thể hiện ý chí của mình về các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Theo đó, khi HĐXX hay kiểm sát viên hoặc người khác công bố các tài liệu, chứng cứ, HĐXX chỉ hỏi ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người đại diện và người liên quan có ý kiến gì về các tài liệu vừa công bố hay không. Điều này là thiết sót của pháp luật khi không trao quyền ý kiến, phản biện, phản hồi, đánh giá chứng cứ, tài liệu cho người làm chứng.

Người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án, do đó, họ dễ dàng nhận thấy sai lầm, thiếu sót trong các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Việc cho họ quyền phản biện, ý kiến về các chứng cứ, tài liệu đó sẽ giúp làm toàn diện vụ việc, phát hiện sai sót của các chủ thể tiến hành tố tụng, thậm chí thay đổi bản chất, định hướng của vụ án. Vì vây, cần quy định HĐXX phải hỏi người làm chứng có ý kiến gì về các tài liệu được công bố tại phiên tòa hay không mới bảo đảm.

Thứ ba, về quyền được thanh toán chi phí đi lại theo quy định của pháp luật. Theo Quyết định 41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ thì người làm chứng được nhận chi phí đi lại. Tuy nhiên, để được thanh toán chi phí đi lại, người làm chứng phải làm theo thủ tục đề nghị cơ quan tố tụng thanh toán. Điều này là phức tạp và gây nhiều khó khăn cho họ trong việc được lấy lại chi phí đã bỏ ra.

Về sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa

Điều 293 BLTTHS quy định, nếu người làm chứng vắng mặt mà đã có lời khai thì công bố những lời đó (tức là không cần phải hoãn phiên tòa, không cần dẫn giải). Trường hợp người làm chứng làm chứng về những vấn đề quan trọng thì tùy từng trường hợp, HĐXX sẽ quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. Nếu người làm chứng cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt gây trở ngại cho việc xét xử thì HĐXX có thể quyết định dẫn giải.

Như vậy, nội dung Điều 293 quy định 03 vấn đề, nhưng tất cả 03 vấn đề đều mang tính tùy nghi, trao quyền cho đánh giá của HĐXX và chưa có hướng dẫn. Cụ thể, thế nào là “vấn đề quan trọng”, nếu đã là vấn đề quan trọng thì cần thiết phải có mặt người làm chứng, nhưng lại có thể “hoãn hoặc vấn tiến hành xét xử”. Trong điều kiện hiện nay, nhiều Tòa án (chủ yếu ở các thành phố) có số lượng vụ án rất lớn, điều đó gây áp lực lên đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nên tiềm ẩn khả năng bỏ qua sự có mặt của người làm chứng ngay cả khi họ làm chứng về những “vấn đề quan trọng”.

Từ đó, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Vì vậy, cần thiết phải có hướng dẫn các tiêu chí xác định “vấn đề quan trọng” và khi người làm chứng đã làm chứng về “vấn đề quan trọng” thì cần thiết phải có mặt, do đó, nếu vắng mặt cần hoãn phiên tòa hoặc dẫn giải theo quy định.

Bên cạnh đó, thực tế xét xử vụ án hình sự hiện nay cho thấy việc có mặt của người làm chứng chưa thật sự được coi trọng. Một số trường hợp cá biệt còn mong muốn người làm chứng không tham gia để giảm bớt phiền phức, thời gian tổ chức phiên tòa. Theo đó, Tòa án đã làm việc, trao đổi, thậm chí “gợi ý” cho người làm chứng vắng mặt, làm đơn xin xét xử vắng mặt. Khi có đơn của người làm chứng, HĐXX sẽ không cần phải lăn tăn về việc xem xét có hoãn phiên tòa hay không.

Trong khi đó, việc người làm chứng có mặt trực tiếp trong nhiều vụ án là rất quan trọng (có trường hợp xét xử lần đầu người làm chứng có mặt khai mâu thuẫn với lời khai trong hồ sơ vụ án, sau khi bản án bị hủy xét xử lại thì người làm chứng tiếp tục vắng mặt).

Thậm chí có trường hợp lời khai còn mâu thuẫn, cần làm rõ, nhưng chỉ cần có đơn là HĐXX sẽ căn cứ vào hồ sơ vụ án, không coi trọng việc xét hỏi trực tiếp. Do đó, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Để khắc phục tình trạng này, phải quy định rõ trường hợp bắt buộc phải có người làm chứng, nếu vắng thì phải hoãn phiên tòa.

Người làm chứng là thành phần tham gia tố tụng rất quan trọng trong vụ án hình sự. Sự có mặt của họ tại phiên tòa, việc họ thực hiện quyền và nghĩa vụ khi làm chứng hay việc bảo vệ để họ có điều kiện tốt nhất để trình bày sự thật khách quan có ý nghĩa đặc biệt lớn. Chính vì vậy, quy định về người làm chứng cần đầy đủ, phù hợp và chặt chẽ nhất thông qua việc hoàn thiện quy định của BLTTHS theo một số kiến nghị nêu trên.

[1] Trần Văn Minh, Quy định về người làm chứng trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức và một số kinhnghiệm đối với Việt Nam, TC LSĐT ngày 03/9/2024, https://lsvn.vn/quy-dinh-ve-nguoi-lam-chung-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-cong-hoa-lien-bang-duc-va-mot-so-kinh-nghiem-doi-voi-viet-nam-1725275926-a146787.html

NGUYỄN VĂN LINH
Tòa án Quân sự khu vực Hải quân

Các tin khác