Hoàn thiện thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư ở Việt Nam

27/09/2023 23:52 | 7 tháng trước

(LSVN) - Một trong yêu cầu cấp thiết của quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hoàn thiện thể chế đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, việc nghiên cứu và đề xuất định hướng giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Bài viết bàn về khái niệm, đặc điểm, các yêu cầu và định hướng hoàn thiện thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư ở Việt Nam hiện nay.

Ảnh minh họa. 

Khái niệm, đặc điểm về thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư

Thể chế có vai trò đặc biệt trong đời sống kinh tế - xã hội, nó phản ánh bản chất, chức năng của Nhà nước đương quyền; đồng thời tác động trực tiếp hay gián tiếp đến mọi hoạt động xã hội. Có thể nói, thể chế giữ vai trò “chủ đạo” trong mối quan hệ hữu cơ với cơ chế, chính sách, cơ chế điều hành và hành vi ứng xử của mọi công dân(1). Theo Từ điển Luật học thì thể chế là “Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo. Hệ thống các định chế hợp thành một tổng thể các chế độ Nhà nước, hình thức tổ chức Nhà nước, các chế độ về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thuật ngữ này cũng thường được dùng để chỉ hệ thống các chế định hợp thành chế độ chính trị, là hình thức thể hiện các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội khác và vai trò, ảnh hưởng lẫn nhau của các thiết chế này trong hệ thống chính trị”(2).

Theo TS Nguyễn Văn Tuân, thể chế về Luật sư và hành nghề Luật sư bao gồm ba nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, các quy phạm, luật lệ, quy tắc về Luật sư và hành nghề Luật sư (quy phạm pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư; quy định, quy tắc của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư ban hành mang tính đạo đức nghề nghiệp để điều chỉnh cách ứng xử của Luật sư trong quá trình hành nghề).

Thứ hai, phương pháp, cách thức để điều hành, quản lý đối với Luật sư và hành nghề Luật sư; phương pháp, cách thức để thực hiện hoạt động nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư.

Thứ ba, các chủ thể bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư và Luật sư có trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư. Các Luật sư và tổ chức Luật sư ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư còn phải thực hiện các quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư, quy định mang tính nội bộ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư.

Thể chế về Luật sư và hành nghề Luật sư có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển Luật sư ở nước ta. Tuy nhiên, vai trò của thể chế phụ thuộc nhiều vào chất lượng của khung khổ pháp luật, cơ chế quản lý, điều hành của cơ quan Nhà nước và hiệu quả của môi trường xã hội(3).

Theo quan điểm của TS Nguyễn Văn Tuân, thể chế quản lý về Luật sư và hành nghề Luật sư ở Việt Nam bao gồm cả thiết chế là các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư và Luật sư.

Tác giả bài viết đồng ý một phần với quan điểm của TS. Nguyễn Văn Tuân và đưa ra khái niệm về thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư như sau:
Thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư là thể chế bổ trợ tư pháp, bao gồm tổng thể các quy phạm, luật lệ, quy tắc về Luật sư và hành nghề Luật sư do Nhà nước và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức hành nghề của Luật sư ban hành, các phương pháp, cách thức quản lý đối với Luật sư và hành nghề Luật sư trong hoạt động hành nghề và hoạt động xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư và các yếu tố khác tương tác giữa các chủ thể có liên quan đến quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư và Luật sư có trách nhiệm phải thực hiện nhằm hướng tới các mục tiêu của chủ thể quản lý đặt ra.

Thể chế quản lý về Luật sư và hành nghề Luật sư có các đặc điểm:

Thứ nhất, về mối quan hệ trong tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư là thể chế bổ trợ tư pháp, phản ánh mối quan hệ giữa hành pháp và tư pháp, có tính chất gạch nối giữa hành chính - tư pháp. Bởi lẽ, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư là hoạt động quản lý và điều hành, đào tạo và công nhận, xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư bảo đảm cho hệ thống tư pháp hoạt động được cân bằng giữa chức năng buộc tội và gỡ tội, giữa việc xác định trách nhiệm và loại trừ trách nhiệm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng mà tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp. Bên cạnh đó, bảo đảm cung cấp dịch vụ pháp lý bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Mặc dù trong tư pháp hình sự, một số quan hệ, Luật sư được công nhận là chức danh tư pháp(4), tuy nhiên các phương diện hoạt động chủ yếu khác của Luật sư như tranh tụng trong các vụ án phi hình sự, tư vấn, đại diện, Luật sư là chức danh bổ trợ tư pháp.

Thứ hai, về cơ cấu, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư bao gồm ba yếu tố cấu thành: (i) các quy phạm, luật lệ, quy tắc, quy định do Nhà nước, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hành nghề của Luật sư ban hành; (ii) cơ chế vận hành của luật lệ và quy tắc tạo ra các phương pháp, cách thức để điều chỉnh đối với Luật sư và hành nghề Luật sư trong quá trình hành nghề của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư trong cơ chế thị trường; (iii) các yếu tố khác tương tác giữa các chủ thể và đối tượng quản lý bao gồm các cơ quan Nhà nước với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư và Luật sư như văn hóa, lịch sử, truyền thống của Luật sư... Thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư không bao gồm yếu tố là các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư, đây là các thiết thế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư.

Thứ ba, về tính chất, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư có tính chất pháp lý và tính chất xã hội - nghề nghiệp. Tính chất pháp lý thể hiện quyền lực Nhà nước trong hệ thống quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành, đặt ra yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước bắt buộc phải tuân thủ và bảo đảm thực hiện. Tính chất xã hội - nghề nghiệp thể hiện trong quan hệ xã hội của Luật sư với các chủ thể trong nghề Luật sư, thể hiện lợi ích, nhu cầu nội tại trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư, đó là tự do trong phương thức hành nghề. Do nghề nghiệp của Luật sư gắn liền với pháp luật và sự tuân thủ pháp luật nên tính chất pháp lý và tính chất xã hội - nghề nghiệp của Luật sư có tính thống nhất với nhau và có xu hướng xích lại gần nhau. Tuy nhiên giữa chúng có ranh giới để phân biệt.

Thứ tư, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư có tính hướng đích. Việc xây dựng thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư nhằm đạt đến mục tiêu của nhà quản lý. Mục tiêu quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay là xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Một số quan điểm, định hướng và giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư ở Việt Nam

Quan điểm, định hướng

Trước hết, theo chúng tôi cần thống nhất nhận thức về chính trị - pháp lý, xác định Luật sư là một chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp độc lập, bởi lẽ, dưới góc độ Nhà nước, hoạt động Luật sư nằm trong hệ thống tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, có mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền với hoạt động tư pháp, thực hiện một chức năng thiết yếu của tố tụng tư pháp đó là bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể nhằm thực thi quyền tư pháp. Hoạt động Luật sư gắn liền với hoạt động xét xử ở chức năng cân bằng trong buộc - gỡ, xác định có hay không trách nhiệm pháp lý trong mối quan hệ đối trọng với chức năng công tố Nhà nước của kiểm sát để áp dụng đúng pháp luật, bảo đảm cho hoạt động xét xử của tòa án được khách quan, chính xác và đúng pháp luật, bảo vệ công lý. Dưới góc độ xã hội, hoạt động Luật sư là phương tiện hữu hiệu, là thành trì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, công dân theo Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động Luật sư vừa có chức năng tư pháp, bảo đảm cho việc thực thi quyền tư pháp, bảo vệ công lý; mặt khác vừa có chức năng giúp đỡ, hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bổ trợ cho hệ thống tư pháp. Hai chức năng này của Luật sư không những không đối lập nhau mà còn có quan hệ thống nhất với nhau và là tiền đề cần thiết cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Tiếp đó, cần xác định hoạt động hành nghề Luật sư là hoạt động nghề nghiệp thiết yếu, không thể thiếu, thuộc lĩnh vực ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cần có được sự bảo đảm và quản lý của Nhà nước theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Luật sư và hành nghề Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý trong cơ chế thị trường để bảo đảm cho cơ chế thị trường được vận hành thông suốt. Tuy nhiên, Luật sư và hành nghề Luật sư đến lượt mình cũng chịu sự tác động của các quy luật của nền kinh tế thị trường. Các quy luật của nền kinh tế thị trường tác động đến hoạt động hành nghề Luật sư theo hai hướng. Hướng tích cực, cơ chế thị trường sẽ là động lực tác động thúc đẩy nghề Luật sư phát triển, số lượng và chất lượng Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư gia tăng đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của xã hội, thực hiện tư vấn pháp luật, bảo đảm an toàn pháp lý trong giao dịch, kinh doanh, giúp các tranh chấp trong kinh doanh, trong xã hội được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, góp phần ổn định và phát triển kinh tế. Quy luật cạnh tranh thúc đẩy sự cải thiện chất lượng dịch vụ pháp lý và giá cả dịch vụ ngày càng hợp lý hơn, phù hợp với khả năng chi trả của khách hàng... Tuy nhiên, các quy luật kinh tế thị trường cũng tác động đến Luật sư, hành nghề Luật sư theo hướng tiêu cực, đó là mặt trái của kinh tế thị trường, dẫn đến việc Luật sư chạy theo đồng tiền, lợi ích kinh tế đơn thuần, cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư, chạy án, phạm tội.

Chính vì vậy, quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư đòi hỏi nhà quản lý phải phát huy được mặt tích cực của cơ chế thị trường, tạo ra động lực thúc đẩy nghề Luật sư tiếp tục phát triển lành mạnh, bền vững, hạn chế được các mặt tiêu cực, bất cập. Do vậy, Nhà nước cần quy định Luật sư và hành nghề Luật sư là dịch vụ nghề nghiệp hoạt động có điều kiện, người hành nghề phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện, bằng cấp chuyên môn, được đào tạo hoặc bồi dưỡng kỹ năng và trau dồi đạo đức nghề nghiệp; tổ chức hành nghề Luật sư phải đăng ký hoạt động và được quản lý chặt chẽ theo tiêu chuẩn và chuẩn mực tư pháp.

Giải pháp

Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư ở Việt Nam đặt ra yêu cầu hoàn thiện thể chế pháp lý và thể chế tự quản của Luật sư và hành nghề Luật sư.

Hoàn thiện thể chế pháp lý

Hoàn thiện thể chế pháp lý quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư đòi hỏi hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh Luật sư và hành nghề Luật sư. Hệ thống này bao gồm các quy phạm, chế định pháp luật chuyên ngành về Luật sư và hệ thống quy phạm, chế định pháp luật tố tụng tư pháp, hành chính - tư pháp liên quan đến Luật sư và hành nghề Luật sư. Cần xây dựng mới Luật Luật sư thay thế cho Luật Luật sư 2006 (được sửa đổi bổ sung năm 2012). Bởi lẽ Luật Luật sư hiện hành được ban hành trước khi Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật cơ bản điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến hành nghề Luật sư được ban hành nên một số quy định của Luật Luật sư chưa kịp thời đồng bộ, tương thích, phù hợp với những quy định của pháp luật có liên quan.

Thứ nhất, Luật Luật sư mới cần xác định đúng địa vị pháp lý, vị trí, vai trò của Luật sư, xác định khái niệm Luật sư là chức danh tư pháp độc lập, chức danh bổ trợ tư pháp trong hệ thống chức danh nghề luật Việt Nam. Định vị đúng vị trí pháp lý của Luật sư, xác định rõ mối quan hệ của Luật sư với các chủ thể khác trong hệ thống các chức danh tư pháp. Luật cần quy định rõ ràng, minh bạch quy trình trở thành Luật sư. Do Luật sư là chức danh tư pháp độc lập, bình đẳng với các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên nên việc gia nhập đội ngũ hành nghề Luật sư của các ứng viên dù được đào tạo ở đâu, tập sự ở cơ sở hành nghề nào đều phải vượt qua kỳ thi tuyển chọn tư pháp quốc gia mới được công nhận.

Xuất phát từ tính chất của nghề Luật sư, phải được đào tạo bài bản trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề, nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý cho khách hàng, Nhà nước và xã hội, Luật Luật sư cần quy định chặt chẽ để hạn chế tối đa các trường hợp được miễn đào tạo, giảm thời gian tập sự hành nghề.

Đối với các trường hợp được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề, ứng viên muốn hành nghề Luật sư phải trải qua khóa bồi dưỡng ngắn hạn về kỹ năng và đạo đức ứng xử nghề nghiệp Luật sư là một điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư.

Thứ hai, Luật Luật sư cần quy định rõ về phạm vi và hình thức hành nghề Luật sư để bảo đảm đặc thù nghề nghiệp Luật sư và tương thích với Luật Doanh nghiệp trong bảo đảm quyền kinh doanh của công dân liên quan đến các thủ tục pháp lý nhưng không phải là Luật sư, không hành nghề Luật sư. Cần làm rõ những vấn đề gì mang tính đặc thù của nghề Luật sư thì quy định trong Luật Luật sư, những vấn đề khác liên quan đến hành nghề Luật sư nên áp dụng luật chung là Luật Doanh nghiệp.

Thứ ba, nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư do Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) cần được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Nguyên tắc này chưa phân định rõ ràng và có những điểm bất hợp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước và của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư trong việc quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư, dẫn đến việc quy định chi tiết thi hành và trong thực tiễn thi hành gặp khó khăn vừa tạo ra khoảng trống pháp lý trong quản lý, hạn chế quyền khiếu kiện các hành vi, quyết định hành chính xâm phạm quyền tiếp cận nghề nghiệp, trở thành Luật sư và hành nghề Luật sư của công dân và của Luật sư. Luật Luật sư cần quy định rõ ràng hai nguyên tắc: nguyên tắc quản lý Nhà nước về Luật sư và hành nghề Luật sư áp dụng đối với hoạt động quản lý Nhà nước về Luật sư và nguyên tắc tự quản của Luật sư áp dụng trong hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong nội bộ tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư.

Thứ tư, Luật Luật sư cần tách bạch chức năng quản lý Nhà nước, thẩm quyền áp dụng pháp luật và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về Luật sư với chức năng tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư. Xác định hệ thống chế tài pháp lý, xử lý vi phạm pháp luật và giao cơ quan có thẩm quyền trong quản lý Nhà nước áp dụng đối với Luật sư trong Luật Luật sư và văn bản hướng dẫn thi hành. Trong trường hợp Luật sư vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị các cơ quan quản lý Nhà nước xử lý hành chính (cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng/thu hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư có thời hạn/không thời hạn). Luật sư sẽ có quyền để khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng hành chính.

Luật Luật sư cần trao quyền cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư ban hành và áp dụng hình thức kỷ luật đối với Luật sư. Các hình thức kỷ luật Luật sư bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, tạm đình chỉ tư cách Luật sư có thời hạn, không thời hạn và xóa tên Luật sư trong danh sách Đoàn Luật sư. Trong trường hợp bị xử lý kỷ luật, Luật sư được quyền khiếu nại, việc giải quyết khiếu nại được quy định trong điều lệ hoặc quy chế nội bộ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư. Quyết định giải quyết của Chủ tịch Hội đồng Luật sư toàn quốc là quyết định cuối cùng. Thứ năm, Luật Luật sư cần quy định về hành nghề của tổ chức Luật sư nước ngoài cho đồng bộ, tương thích với pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư Việt Nam. Ngoài các quy định trong Chương VI về hành nghề của tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài tại Việt Nam, thì tổ chức hành nghề Luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài hành nghề ở Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật Luật sư Việt Nam giống như các Luật sư Việt Nam, khi vi phạm pháp luật Luật sư, pháp luật Việt Nam hay vi phạm kỷ luật của Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Thứ sáu, Luật Luật sư đã quy định tại Điều 91 về việc xử lý vi phạm đối với các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư, tuy nhiên cho đến nay chưa có cơ chế pháp lý để thực thi, bởi lẽ các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư chưa được quy định chế tài cụ thể để có cơ sở áp dụng. Ví dụ hành vi cản trở hoạt động hành nghề Luật sư: điều tra viên, thủ trưởng cơ quan điều tra chậm trễ, không cấp đăng ký người bào chữa cho bị can, bị cáo; tác động đến tinh thần, đe dọa để bị can, bị cáo viết giấy từ chối Luật sư trái với mong muốn của họ dẫn đến oan, sai, gây hậu quả nghiêm trọng…, nhưng đến nay chưa có trường hợp nào bị hình sự hóa, thậm chí chưa bị hành chính hóa và chưa có cơ chế để xử lý kỷ luật đối với hành vi của cán bộ tiến hành tố tụng vi phạm, cản trở hoạt động hành nghề hợp pháp của Luật sư. Luật Luật sư cần giao Chính phủ quy định cụ thể hệ thống chế tài hành chính để xử lý hành vi vi phạm cản trở hoạt động hành nghề của Luật sư; hoàn thiện hệ thống chế tài hình sự xử lý hành vi cản trở gây hậu quả nghiêm trọng đối với hoạt động hành nghề của Luật sư.

Thứ bảy, cần sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan đến hành nghề Luật sư, trước hết là các luật về tố tụng để bảo đảm cho Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đặc thù nghề nghiệp, cần xác định Luật sư không phải là chủ thể của tội phạm và được miễn truy tố đối với tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Nếu tố giác khách hàng, Luật sư sẽ không hoàn thành nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của khách hàng, trái với đạo lý. Đương nhiên khi Luật sư thực hiện nghĩa vụ tố giác sẽ bị khách hàng tẩy chay. Trong khi về pháp lý, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Luật sư chỉ có nghĩa vụ tố giác khi khách hàng đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, để ngăn ngừa đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, khủng bố, xâm phạm lợi ích công cộng. Lúc này Luật sư có quyền từ chối yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của khách khàng và thực hiện trách nhiệm công dân. Cần sửa đổi Luật Doanh nghiệp theo hướng xác định dịch vụ pháp lý của Luật sư trong phạm vi hành nghề Luật sư là ngành, nghề hoạt động, kinh doanh có điều kiện phải thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Trong đó Luật Doanh nghiệp là luật chung điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp trong tất cả các ngành, nghề kinh doanh. Luật chuyên ngành trong trường hợp này là Luật Luật sư điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội. Tuy nhiên cần sửa đổi quy định tại Điều 4, Điều 22 và các quy định liên quan của Luật Luật sư nhằm làm rõ hơn khái niệm “dịch vụ pháp lý” của Luật sư trong hoạt động hành nghề Luật sư, xác định rõ chủ thể thực hiện là Luật sư và người có đủ điều thực hiện tư vấn pháp luật, để tránh hiểu nhầm là bất kỳ doanh nghiệp, cá nhân nào cũng có thể thực hiện “dịch vụ pháp lý”, “hành nghề Luật sư” mà không cần đáp ứng về tiêu chuẩn, điều kiện gì.

Hoàn thiện thể chế tự quản về Luật sư và hành nghề Luật sư

Thể chế tự quản của Luật sư là toàn bộ hệ thống quy định, điều lệ, nội quy, quy chế của Luật sư do tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư ban hành, có giá trị bắt buộc đối với Luật sư là thành viên của tổ chức đó, nếu vi phạm sẽ phát sinh trách nhiệm kỷ luật đối với Luật sư.

Thứ nhất, hoàn thiện quy định đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các Đoàn Luật sư và Luật sư, hỗ trợ quyền hành nghề của Luật sư và nâng cao vị trí, vai trò của Luật sư.

Đại diện và bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư là trách nhiệm và bổn phận của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư. Trong quá trình hành nghề, các quan hệ giữa Luật sư với khách hàng, quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng không tránh khỏi những mâu thuẫn và tranh chấp. Nếu quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư bị xâm phạm thì Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư sẽ phải bảo vệ quyền lợi của Luật sư.

Ngoài việc gửi văn bản kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tôn trọng quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư cử đại diện đến làm việc với các cơ quan liên quan, có văn bản gửi đến khách hàng và người dân để giải thích cho họ về quyền lợi hợp pháp của Luật sư cần phải được tôn trọng và bảo vệ. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư có thể khởi kiện tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm quyền lợi Luật sư, đề nghị tòa án giải quyết bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Luật sư. Về lâu dài, tiến tới xây dựng Đề án đề xuất lập pháp để đề nghị Quốc hội, cơ quan có thẩm quyền thành lập tòa án về Luật sư để thụ lý, giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện có liên quan đến Luật sư, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư và các bên có liên quan.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, xây dựng thiết chế thực hiện công tác đào tạo nghề Luật sư (nguồn Luật sư); bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo đức hành nghề cho đội ngũ Luật sư.

Thứ ba, hoàn thiện thể chế giám sát Luật sư, người tập sự hành nghề Luật sư, Đoàn Luật sư trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ, Quy chế của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; giám sát việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư; nhận thức, tư tưởng của Luật sư. Đây là hoạt động quản lý có tính chất nội bộ. Tuy nhiên tác dụng và hiệu quả của nó có tính đối ngoại vô cùng to lớn. Bởi lẽ việc giám sát nội bộ tốt đội ngũ Luật sư tuân thủ pháp luật, có tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức ứng xử nghề nghiệp cao nhất sẽ làm cho cho uy tín của giới Luật sư, từng Luật sư nâng cao, bảo đảm sự tin cậy của Nhà nước và xã hội, giúp cho nghề Luật sư phát triển bền vững.

Thứ tư, hướng dẫn và giám sát Luật sư thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý của Luật sư. Thực hiện quy định về trợ giúp pháp lý là nghĩa vụ Luật sư theo quy định của Luật Luật sư, Liên Đoàn Luật sư Việt Nam đã ban hành Quyết định số 93/QĐ-BTV ngày 09/10/2014 (được thay thế bằng Quyết định số 112/ QĐ-BTV    ngày 18/10/2018 Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam) quy định về thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Luật sư, trong đó quy định thời gian tối thiểu một Luật sư phải thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí trong một năm tối thiểu là 4 giờ làm việc. Tuy nhiên để hoàn thiện công tác này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam nên ban hành Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ pháp lý nói chung, chất lượng dịch vụ pháp lý của Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý nói riêng, giúp cho hoạt động quản lý chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý của Luật sư. Từ đó có tiêu chí đánh giá Luật sư, khen thưởng, kỷ luật Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý.

Thứ năm, hoàn thiện thể chế quản lý hoạt động tập sự hành nghề Luật sư; cấp, đổi, thu hồi thẻ Luật sư. Theo Luật Luật sư hiện hành, việc tập sự hành nghề, kiểm tra hết tập sự, được cấp thẻ Luật sư, gia nhập Đoàn Luật sư là các bước thực hiện điều kiện để được hành nghề Luật sư. Trên thực tế, có nhiều ứng viên đã thực hiện xong nghĩa vụ tập sự nhưng chưa được tham dự kỳ kiểm tra kết quả tập sự (vì Liên đoàn chỉ tổ chức 2 lần trong 1 năm). Kiểm tra kết quả tập sự đạt yêu cầu và được thông báo qua website của Liên đoàn nhưng người tập sự phải chờ được cấp giấy chứng nhận đạt kết quả, sau khi làm thủ tục phải chờ được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư, chờ gia nhập Đoàn Luật sư, chờ được cấp thẻ Luật sư, mất khá nhiều thời gian chờ đợi, ảnh hưởng đến quyền tiếp cận nghề nghiệp hành nghề Luật sư. Do vậy Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần rà soát để hoàn thiện thể chế nội bộ, sửa đổi theo hướng tăng tối đa kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư trong 1 năm để bảo đảm quyền tham dự của người tập sự hành nghề Luật sư, giảm tối đa thời gian dừng chờ của các ứng viên, góp phần tiết kiệm thời gian và giảm chi phí xã hội cho hoạt động vào nghề của những ứng viên Luật sư.

Thứ sáu, hoàn thiện thể chế kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật và khen thưởng Luật sư là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhằm thực hiện chức năng tự quản của tổ chức Luật sư. Liên đoàn đã phối hợp tốt với các Đoàn Luật sư để triển khai công tác này. Kịp thời biểu dương, khen thưởng đối với những Luật sư, tổ chức hành nghề gương mẫu trong việc tuân thù pháp luật, chuẩn mực đạo đức, đồng thời phát hiện, xử lý nghiêm minh những Luật sư vi phạm Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư. Liên đoàn đã xây dựng cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư và khách hàng. Ngoài Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư, Liên đoàn còn ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo; Quy định xử lý kỷ luật áp dụng chung cho các Đoàn Luật sư.

Đó là những văn bản quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý Luật sư nói chung và công tác giám sát, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng.

Tuy nhiên việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến Luật sư là công việc rất phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi thực hiện với thái độ kiên quyết, vô tư, thấu tình, đạt lý và với tinh thần trách nhiệm cao. Để thực hiện tốt công tác này, bên cạnh việc xây dựng cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần tập trung xây dựng thiết chế củng cố nhân sự về công tác khen thưởng - kỷ luật và các nhân sự có liên quan đến công tác này. Đồng thời kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sửa đổi thể chế pháp lý theo hướng tách xử lý kỷ luật Luật sư ra khỏi xử lý vi phạm pháp luật về Luật sư, bảo đảm quyền khiếu kiện hành chính của Luật sư đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính liên quan đến Luật sư.

Kết luận

Sau gần 40 năm đổi mới (1986- 2023) kể từ ngày Pháp lệnh Tổ chức Luật sư được ban hành, đội ngũ Luật sư và hoạt động hành nghề Luật sư ở Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư từng bước được hoàn thiện, bước đầu đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, góp phần đáng kể vào sự phát triển đất nước, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, thể chế quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư cần tiếp tục được hoàn thiện, bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với Luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề Luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

(1)    GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền, MBA Nguyễn Lê Anh, Mối quan hệ giữa thể chế, cơ chế, chính sách, cơ chế điều hành và hành vi ứng xử, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 22 (32) tháng 5-6/2015, tr.3. 
(2)    Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 703-704.
(3)    TS Nguyễn Văn Tuân, Thể chế về Luật sư và hành nghề Luật sư trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, 2021.
(4)    Sự tham gia bắt buộc của Luật sư trong tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.

Ths NGUYỄN HỮU ƯỚC

Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Một số ý kiến đối với dự án Luật Công chứng (sửa đổi)