Huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình: Những khó khăn của doanh nghiệp cần được tháo gỡ

08/05/2022 10:46 | 2 năm trước

(LSVN) - Hiện nay, vấn đề tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai giữa các chủ thể vẫn còn diễn ra hết sức phức tạp, một phần là do giá đất đai liên tục có sự biến động, lý do khác là do sự quản lý đất đai có sự lỏng lẻo của các cấp chính quyền địa phương, mặt khác cũng còn nhiều bất cập trong việc xem xét, xử lý đánh giá các chứng cứ của các cơ quan chức năng, nhưng mặt khác cũng do chính những chủ thể khi giao dịch mua bán đất do không am hiểu pháp luật hoặc do có sự gian dối nên đã khiến cho sự việc trở nên phức tạp. Vụ việc ở tỉnh Ninh Bình phản ánh phần nào thực trạng đó.

Mặc dù đã đươc cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) được hơn 10 năm, mặt bằng cũng đã được đưa vào sản xuất ổn định thì phát sinh khiếu kiện, vụ việc đã được toà án cấp sơ thẩm huyện Yên Mô và TAND tỉnh Ninh Bình đưa ra xét xử. Nội dung vụ việc như sau:

Mặt bằng đã được tỉnh chấp thuận và cấp GCNQSDĐ

Theo tài liệu vụ việc: Vào năm 1993, UBND xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình có chia đất 313 cho các xã viên. Năm 2009, do có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chị Thân Thị Kim Hoa (trú tại Đội 2, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) đã nhận chuyển nhượng đất của rất nhiều hộ dân tại xã Mai Sơn, huyện Yên Mô. Trong số diện tích nhận chuyển nhượng, có phần diện tích ao cá của vợ chồng ông Đinh Công Xuyến, Phạm Thị Nghi (xã Mai Sơn) hai lần với tổng diện tích là 637m2.

Lần thứ nhất, khoảng đầu năm 2009, nhận chuyển nhượng diện tích 227m2 thuộc thửa 1916, tờ bản đồ xã Mai Sơn. Lần thứ hai, nhận chuyển nhượng diện tích 410m2 thuộc thửa 1916, tờ bản đồ xã Mai Sơn. Tuy nhiên, trong phần diện tích 227m2 này có phần đất của anh Khai 58m2, anh Thi 39m2, ông Xuyến - bà Nghi 130m2. Sau khi nhận chuyển nhượng, chị Hoa cùng chồng là anh Đinh Tuyết Cương, ông Đinh Công Xuyến và bà Phạm Thị Nghi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất trên theo Hợp đồng số 62/CN-QSDĐ ngày 20/4/2010, có chứng thực tại UBND xã Mai Sơn. Cùng trong năm 2010, chị Hoa cùng chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng là QSDĐ vào tài sản của doanh nghiệp tư nhân Hoa Cương do chị Hoa làm Giám đốc.

Sau đó, doanh nghiệp tư nhân Hoa Cương đã tiến hành xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất và xin dự án đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất cấu kiện bê tông và vật liệu xây dựng và đã được UBND tỉnh Ninh Bình chấp nhận. Sở TN&MT tỉnh Ninh Bình cũng đã xác định mốc giới và giao đất tại thực địa cho doanh nghiệp. Sau khi dự án được chấp thuận, doanh nghiệp tư nhân Hoa Cương đã tiến hành san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, kho bãi, xây tường bao xung quanh toàn bộ khu đất. Ngày 22/4/2011, UBND tỉnh Ninh Bình cấp Giấy CNQSDĐ đối với toàn bộ diện tích mà doanh nghiệp tư nhân Hoa Cương đã nhận chuyển nhượng với tổng diện tích là 5951,3m2 tại thửa 1916, tờ bản đồ 191đ, bản đồ địa chính xã Mai Sơn.

Ngày 27/10/2016, doanh nghiệp tư nhân Hoa Cương chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên có tên là Công ty CP TNHH Thương Mại và Vận tải Hoa Cương.

Tuy nhiên, ngày 06/02/2020, anh Hoàng Ngọc Khai (sinh năm 1969, địa chỉ tại xóm 8, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, là con của ông Xuyến - bà Nghi) đã có đơn khởi kiện tại Toà án và Yêu cầu Công ty CP TNHH Thương mại và vận tải Hoa Cương phải trả lại phần diện tích 58m2 đất ao, thuộc thửa 1916, tờ bản đồ 191đ tại xã Mai Sơn mà năm 2009, vợ chồng ông Xuyến - bà Nghi đã chuyển nhượng cho chị Hoa.

Vụ việc đã được đưa ra xét xử, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 08/9/2021 của TAND huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình nhận định về bản Hợp đồng số 62, ngày 20/4/2010 như sau: “… Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 62 đối với phần diện tích đất của gia đình anh Khai, chưa có sự ủy quyền, tặng cho hay mua bán giữa gia đình anh Khai với ông Xuyến - bà Nghi, mà ông Xuyến - bà Nghi đã bán cho chị Hoa anh Cương là không phù hợp với quy định, do đó ông Xuyến - bà Nghi có gian dối trong việc định đoạt đối với phần diện tích ao của anh Khai - chị Bình, không thể hiện ý chí của người có quyền về tài sản, là trái quy định của pháp luật nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 62 bị vô hiệu một phần”. Do vậy, “… việc anh Khai - chị Bình yêu cầu buộc Công ty CP TNHH Thương mại và Vận tải Hoa Cương trả lại là có căn cứ chấp nhận. Song, xét về bản chất sự việc, anh Khai - chị Bình là người được cấp đất để sản xuất, bản thân anh Khai - chị Bình cũng không quan tâm xem đất của mình được chia ở đâu, được thể hiện (tại bút lục từ 51 đến 57 anh Khai - chị Bình đều khai vào năm 2019, khi mang xe đến đổ đất san lấp phần ao cạnh thửa đất thổ cư 160m2 thì chính quyền địa phương cho biết diện tích đất ao giáp với thửa đất thổ cư có vị trí đối diện với đất của chị Hoa đó là đất của công, do UBND xã quản lý, còn diện tích 58m2 đất ao mà anh chị được chia năm 1993 đã được chuyển nhượng cho chị Hoa), trong suốt quãng thời gian này anh Khai - chị Bình ở tại địa phương đều biết việc doanh nghiệp Hoa Cương san lấp diện tích đất ao đã chia cho dân vào năm 1993, dồn điền đổi thửa năm 2005 nhưng anh chị không có ý kiến gì về việc tại sao doanh nghiệp lại đổ đất lên phần đất ao của mình được chia, trong các bản khai của anh Khai - chị Bình đều trình bày diện tích đất ao đó cho ông Xuyến - bà Nghi trồng rau muống. Như vậy thể hiện các lời khai của anh Khai - chị Bình có sự mâu thuẫn với nhau trong chính lời khai của mình về việc đất của mình được chia ở đâu…”.

Cũng tại bản án sơ thẩm: “Vào năm 2009, chị Hoa có nhu cầu về sử dụng đất vào mục đích sản xuất kinh doanh dịch vụ nên chị Hoa đã mua của các hộ gia đình là có thật, trong quá trình chuyển quyền sử dụng đất, giữa chị Hoa và bên chuyển nhượng đã không thực hiện chặt chẽ theo quy định của pháp luật dẫn đến sự việc Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 62 ngày 20/4/2010 bị vô hiệu đối với phần diện tích 58m2 đất ao của anh Khai - chị Bình. Thời hiệu của việc tuyên hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật là 02 năm kể từ ngày biết vi phạm. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu phải căn cứ vào tình hình thực tế, mục đích, nhu cầu sử dụng của các bên, sao cho giá trị sử dụng đất đó đạt kết quả cao nhất. Trên thực tế, sau khi chị Hoa nhận chuyển nhượng của các hộ, chị Hoa đã làm thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền cho chuyển mục đích sử dụng từ đất ao sang đất kinh doanh. Sau đó, phần diện tích đất mà chị Hoa mua của các hộ, chị Hoa đã góp vào Công ty CP TNHH Thương mại và Vận tải Hoa Cương. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu công ty trả lại phần diện tích 58m2 là không phù hợp, bởi phần diện tích đất ao của nguyên đơn yêu cầu được nằm chính giữa cửa của nhà xưởng của công ty, diện tích 58m2 là rất nhỏ được nằm trong tổng diện tích 5961,3m2, thửa số 4900, tờ bản đồ số 191đ xã Mai Sơn, huyện Yên Mô. Việc tách diện tích 58m2 đất để trả cho nguyên đơn là không phù hợp với quy định của pháp luật, hơn nữa phần diện tích này đã được cấp có thẩm quyền cho chuyển mục đích sử dụng từ đất ao sang mục đích sản xuất kinh doanh. Theo quy định tại Điều 131, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Tại chứng thư thẩm định giá của Công ty TNHH thẩm định giá Tràng An ngày 19/11/2020 đã định giá, giá trị quyền sử dụng diện tích đất ao 58m2 là 18.908.000 đồng. Nên buộc Công ty CP TNHH Thương mại và Vận tải Hoa Cương phải hoàn trả giá trị thành tiền cho phía nguyên đơn là 18.908.000 đồng là phù hợp”.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh Ninh Bình số 11/2022/DS-PT ngày 09/3/2022 cũng đã tuyên như sau:

Thứ nhất: “…  buộc Công ty CP TNHH Thương mại và Vận tải Hoa Cương phải hoàn trả cho các thành viên trong hộ gia đình ông Khai gồm ông Hoàng Ngọc Khai - bà Đinh Thị Bình, anh Hoàng Ngọc Hải giá trị quyền sử dụng 58m2 đất ao với số tiền là 18.908.000 đồng (mười tám triệu chín trăm linh tám nghìn đồng).

Thứ hai: Công ty CP TNHH Thương mại và Vận tải Hoa Cương tiếp tục được quyền sử dụng diện tích 58m2 đất trong thửa 4900, tờ bản đồ 191đ xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình theo GCNQSDĐ số CK 087889 ngày 23/5/2018.

Thứ ba, đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Ngọc Khai về việc buộc bà Thân Thị Kim Hoa bồi thường thiệt hại do 9 năm bà Hoa sử dụng đất của gia đình ông Khai với số tiền 18.000.000 đồng".

Có hay không việc giả mạo chữ ký?

Tại Bản án sơ thẩm số 03/2021/DS-ST của TAND huyện Yên Mô có nêu: "Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Xuyến - bà Nghi, anh Khai - chị Bình đều khẳng định ông Xuyến - bà Nghi không ký vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 62 ngày 20/4/2010 và trong quyển sổ của chị Hoa xuất trình và đề nghị Toà án giám định chữ ký và chữ viết trong hợp đồng. Cho rằng, chị Hoa tự mình lập hợp đồng khống để chiếm đoạt tài sản của nguyên đơn, nguyên đơn đã đề nghị Toà án chuyển hồ sơ vụ án sang Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Mô giải quyết vụ án hình sự. Ngày 10/7/2020, Công an huyện Yên Mô có văn bản xác định nội dung đơn đề nghị giải quyết là vụ án dân sự. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Mô không thụ lý giải quyết.

Sau đó, căn cứ vào đơn của chị Hoa, TAND huyện Yên Mô đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 62 ngày 20/4/2010. Kết quả giám định như sau: Tại Kết luận số 384/C09-P5 ngày 18/02/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Chữ viết, chữ ký đứng tên Đinh Công Xuyến dưới mục “Bên chuyển nhượng” trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 so với chữ viết, chữ ký đứng tên Đinh Công Xuyến, Đinh Công Xuyến trên các mẫu so sánh ký hiệu M1 đến M10 do cùng một người viết, ký ra; Chữ viết, chữ ký đứng tên Phạm Thị Nghi dưới mục “Bên chuyển nhượng” trên mẫu cần giám định ký hiệu A2 so với chữ viết, chữ ký đứng tên Phạm Thị Nghi dưới các chữ “đã nhận đủ tiền 313” trên mẫu cần giám định ký hiệu A3 so với chữ viết, chữ ký của Phạm Thị Nghi trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M6 đến M12 cùng một người viết, ký ra.

Ngày 03/11/2020, anh Khai - chị Bình có đơn đề nghị giám định tại Phòng giám định kỹ thuật hình sự - Bộ Quốc phòng, ngày 04/3/2021, Toà án ra quyết định trưng cầu giám định tại Cục điều tra hình sự Bộ quốc phòng. Tại bản Kết luận số 74/GĐKTHS- P11 ngày 14/4/2021 của Phòng giám định kỹ thuật hình sự - Bộ Quốc phòng kết luận: Chữ viết, chữ ký ghi họ tên “Đinh Công Xuyến” cần giám định trên tài liệu ký hiệu A1 với chữ ký, chữ viết mẫu so sánh của ông Đinh Công Xuyến (Đinh Văn Xuyến) trên tài liệu từ M1 đến M10 là do cùng một người ký; Chữ viết ghi họ tên “Phạm Thị Nghi” cần giám định trên tài liệu ký hiệu A1, A3 với chữ viết mẫu so sánh ghi của bà Phạm Thị Nghi trên các tài liệu ký hiệu từ M6 đến M12 là do cùng một người viết ra; Chữ viết ghi họ tên “Phạm Thị Nghi” cần giám định trên tài liệu ký hiệu A2 với chữ viết mẫu so sánh ghi của bà Phạm Thị Nghi trên các tài liệu từ M6 đến M12 là không phải do cùng một người viết ra.

Sau khi có kết quả giám định chữ ký, chữ viết, TAND huyện Yên Mô kết luận: “Với kết quả của việc giám định của Viện khoa học hình sự Bộ Công an và Phòng giám định kỹ thuật hình sự - Bộ Quốc phòng, đều khẳng định chữ viết và chữ ký của ông Đinh Công Xuyến và bà Phạm Thị Nghi đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 62 ngày 20/4/2010, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa ông Xuyến - bà Nghi với chị Hoa - anh Cương là hợp pháp, phát sinh hiệu lực pháp luật”.

PV

TAND Cấp cao tại Đà Nẵng quyết định đưa vụ án bồi thường án oan 41 năm trước ra xét xử phúc thẩm