/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Mối quan hệ giữa quyền công tố – xét xử trong tố tụng hình sự ở Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Mối quan hệ giữa quyền công tố – xét xử trong tố tụng hình sự ở Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

10/09/2025 11:26 |

(LSVN) - Quyền công tố và quyền xét xử giữ vị trí trung tâm trong tố tụng hình sự. Bài viết phân tích khái niệm, đặc điểm của quyền công tố và quyền xét xử trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. Tác giả làm rõ làm rõ mối quan hệ chế ước lẫn nhau giữa hai quyền năng quyền công tố và quyền xét xử theo quy định pháp luật hình sự của Hoa Kỳ, hai quyền này vừa kiềm tỏa nhau, vừa hỗ trợ nhau. Trên cơ sở tham chiếu với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 của Việt Nam, bài viết đề xuất một số bài học kinh nghiệm nhằm tăng cường tranh tụng, bảo đảm độc lập tư pháp và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện hai quyền này trong thực tế.

Đặt vấn đề

Trong mọi hệ thống tố tụng hình sự, quyền công tố và quyền xét xử là hai trụ cột chính, thể hiện cơ chế phân công – phối hợp – kiểm soát quyền lực nhà nước. Ở Hoa Kỳ, công tố viên thuộc nhánh hành pháp, còn Tòa án là trung tâm của quyền tư pháp. Sự phân định này phản ánh rõ nguyên tắc tam quyền phân lập, đảm bảo rằng không một chủ thể nào nắm trọn quyền trừng phạt hình sự. Trong khi đó, ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân vừa thực hành quyền công tố vừa kiểm sát hoạt động tư pháp. So sánh hai mô hình sẽ giúp rút ra bài học cho cải cách tư pháp Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Khái quát về quyền công tố, quyền xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ

Quyền công tố ở Hoa Kỳ

Quyền công tố ở Hoa Kỳ hình thành và phát triển trong bối cảnh đặc thù của một nhà nước liên bang theo hệ thống thông luật, được kế thừa từ truyền thống pháp lý Anh nhưng đã phát triển thành một mô hình đặc thù với sự phân tầng quyền lực rõ rệt. Ban đầu, quyền truy tố thuộc về công dân thông qua cơ chế tư tố hoặc đại bồi thẩm đoàn, song theo quá trình chuyên nghiệp hóa, chức năng này được chuyển giao cho các cơ quan công tố chuyên trách, tạo nên một hệ thống công tố đa tầng gồm cấp bang và cấp liên bang. Ở các bang, Tổng Chưởng lý bang (Attorney General) và công tố viên quận/hạt (District Attorneys) là những chủ thể chính thực hiện chức năng công tố. Điểm đặc biệt của mô hình này là công tố viên bang thường do cử tri trực tiếp bầu ra, khiến họ vừa là viên chức hành pháp vừa là chính khách địa phương, phải chịu trách nhiệm giải trình trước cộng đồng về chính sách truy tố của mình. Thực tiễn cho thấy cơ chế bầu cử đã làm gia tăng sự dân chủ nhưng đồng thời cũng khiến hoạt động công tố chịu ảnh hưởng đáng kể từ chính trị và dư luận. Về thẩm quyền, công tố viên bang có nhiệm vụ truy tố các hành vi vi phạm pháp luật bang ra trước tòa án cùng cấp, đồng thời tham gia chỉ đạo cảnh sát trong việc thu thập chứng cứ và bảo đảm thủ tục tố tụng hợp pháp, một số văn phòng công tố lớn còn có bộ phận điều tra riêng để nâng cao tính chủ động trong xử lý tội phạm.

Ở cấp liên bang, quyền công tố tập trung trong tay Tổng Chưởng lý Liên bang (Attorney General of the United States), người đứng đầu Bộ Tư pháp và lãnh đạo trực tiếp 94 Văn phòng Công tố Liên bang (U.S. Attorneys Offices) được phân bố theo khu vực tài phán. Công tố viên liên bang do Tổng thống bổ nhiệm và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng Tư pháp, có trách nhiệm truy tố các tội phạm liên bang nghiêm trọng như khủng bố, ma túy xuyên quốc gia, tham nhũng quan chức liên bang hay phản quốc. Đặc điểm này phản ánh rõ sự gắn bó giữa công tố liên bang và đường lối chính trị của đảng cầm quyền, bởi lãnh đạo ngành tư pháp thay đổi theo nhiệm kỳ tổng thống, song hoạt động công tố cụ thể vẫn chịu sự kiểm soát bởi hệ thống tòa án liên bang độc lập. Điểm nổi bật nhất trong quyền công tố của Hoa Kỳ là quyền tùy nghi truy tố (prosecutorial discretion), theo đó công tố viên được toàn quyền quyết định có truy tố hay không, lựa chọn tội danh nào, cũng như có tiến hành thỏa thuận nhận tội (plea bargaining) để giảm nhẹ hình phạt hay không. Quyền năng này mang lại sự linh hoạt giúp tiết kiệm nguồn lực và tập trung xử lý các vụ án trọng điểm, nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh vấn đề thiếu minh bạch và nguy cơ lạm dụng quyền lực. Chính vì vậy, học giả Ronald F. Wright và Marc L. Miller đã gọi đây là “khoảng trống trách nhiệm” (accountability deficit) của hệ thống công tố Hoa Kỳ, khi quyền lực truy tố quá rộng trong khi cơ chế kiểm soát lại chưa thật sự hiệu quả.

Quyền xét xử ở Hoa Kỳ

Quyền xét xử ở Hoa Kỳ thuộc về hệ thống tòa án, được xác lập như một nhánh quyền lực độc lập trong cơ chế tam quyền phân lập và giữ vai trò trọng tài trong việc quyết định có tội hay vô tội. Đặc điểm nổi bật nhất là tính độc lập của thẩm phán, đặc biệt ở cấp liên bang khi họ do Tổng thống bổ nhiệm, được Thượng viện phê chuẩn và có nhiệm kỳ suốt đời, qua đó bảo đảm rằng quyền xét xử không chịu sự chi phối từ hành pháp hay lập pháp. Một nguyên tắc đặc thù là việc sử dụng bồi thẩm đoàn, theo đó trong các vụ án hình sự nghiêm trọng, quyết định cuối cùng về tội trạng thuộc về một hội đồng bồi thẩm gồm các công dân thường, phản ánh tinh thần dân chủ và sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào hoạt động tư pháp. Về cơ chế vận hành, tòa án Hoa Kỳ áp dụng mô hình tranh tụng và án lệ, trong đó công tố và luật sư bào chữa đối trọng nhau trên cơ sở bình đẳng, còn thẩm phán giữ vai trò điều khiển phiên tòa và bảo đảm thủ tục xét xử công bằng.

Một số quan điểm cho rằng các thẩm phán ở Hoa Kỳ chỉ là những trọng tài đứng trung lập của hệ thống tư pháp hình sự và họ không có quyền tự quyết cao như thẩm phán ở nhiều quốc gia. Nhưng cũng có học giả cho rằng, “vấn đề không nằm ở việc thiếu quyền lực tư pháp mà nằm ở việc thẩm phán ở cấp cao quyết định sử dụng quyền lực theo cách mà các thẩm phán cấp dưới không đồng tình, nhưng vẫn phải tuân thủ do vị trí trong hệ thống tư pháp phân cấp”. Theo quan điểm này có thể thấy quyền lực của Tòa án ở Hoa Kỳ bị giới hạn bởi chính nội bộ ngành Tòa án, chứ không phải là yếu tố bên ngoài. Tuy nhiên thực tế qua nhiều phân tích khách quan của các học giả và quy định pháp luật của Hoa Kỳ hiện nay, chúng ta thấy được việc quyền lực của Toà án bị giảm hoặc hạn chế đến từ cả việc quyền lực công tố ở Hoa Kỳ quá lớn và sự tác động của chính hệ thống phân cấp trong nội bộ Tòa án (nhưng nguyên nhân chính đến từ vấn đề quyền công tố).

Pháp luật Hoa Kỳ trao quyền lực truy tố tùy nghi cho công tố viên thông qua việc có áp thỏa thuận nhận tội hay không, và có truy tố hay không đã làm hạn chế quyền lực của Toà án là một sự thật khách quan và có dẫn chứng quy định pháp luật và thực tế rõ ràng. Điều này phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa quyền công tố và quyền xét xử: về lý thuyết, tòa án có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người-quyền công dân, tìm và bảo vệ công lý, quyết định mức hình phạt, kiểm soát việc tuân thủ pháp luật, nhưng trên thực tế, quyền tùy nghi truy tố của công tố viên đã hạn chế đáng kể khả năng phát huy đầy đủ chức năng kiểm soát của tòa án. Chính vì vậy, trong khoa học pháp lý Hoa Kỳ, việc cân bằng giữa tính độc lập của tòa án và quyền lực quá lớn của công tố viên vẫn là một chủ đề tranh luận sôi nổi.

Mối quan hệ giữa quyền công tố và quyền xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ

Mối quan hệ giữa quyền công tố và quyền xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ cực kỳ phức tạp, trong đó quan hệ hỗ trợ nhau chỉ là yếu tố phụ, yếu tố chính ở đây là sự kiểm soát quyền lực và sự độc lập của hai quyền này với nhau.

Sự độc lập của quyền công tố thể hiện ở chỗ cơ quan công tố liên bang (mà cụ thể ở đây là công tố viên liên bang) cần xem xét có căn cứ hợp lý để tin rằng cá nhân nào đó phạm tội liên bang trong quyền hạn của mình hay không, thì cần xem xét liệu có nên: (1) yêu cầu hoặc tiến hành điều tra thêm, (2) đề xuất truy tố, (3) từ chối truy tố và chuyển vụ việc cho cơ quan công tố có thẩm quyền xem xét, (4) từ chối truy tố và đề xuất biện pháp chuyển hướng trước xét xử hoặc các biện pháp xử lý phi hình sự, (5) từ chối truy tố mà không thực hiện thêm hành động nào khác. Chúng ta có thể thấy trong số năm việc mà công tố viên liên bang phải xem xét có đến ba việc liên quan trực tiếp đến từ chối truy tố, và không có bất cứ yêu cầu nào của Toà án đề nghị cơ quan công tố liên bang phải truy tố tội phạm, điều này thể hiện rất rõ sự độc lập của hai nhánh quyền và của hai cơ quan đại diện cho hai nhánh quyền này. Điều này đến từ chính truyền thống pháp luật và thói quen áp dụng nguyên tắc tùy nghi truy tố của hệ thống công tố Hoa Kỳ. Không chỉ vậy chỉ khi các công tố viên liên bang tin rằng các hành vi của cá nhân đã cấu thành tội phạm được pháp luật liên bang quy định và “các bằng chứng có thể đủ khả năng buộc tội và giúp toà đưa ra bản án”, thì các công tố viên này mới được khuyến khích nên khởi tố hoặc đề nghị truy tố.

Sự độc lập của quyền xét xử nằm ở chỗ, cơ quan công tố không thể tác động hoặc sử dụng các chứng cứ, chứng minh công dân có tội mà không tiến hành tranh luận trước toà, nói đơn giản toà án chỉ tin vào sự thật trước mắt, không tin hoàn toàn vào những hồ sơ, giấy tờ mà bên công tố gửi. Có được điều này là do các thẩm phán liên bang của Hoa Kỳ được chọn ra theo cơ chế cực kỳ đặc thù và nắm giữ vị trí đó suốt đời, họ chỉ bị bãi nhiệm thông qua quy trình luận tội được thực hiện bởi Nghị viện. Chính điều này đã tạo ra cho các thẩm phán của Hoa Kỳ những quyền lực cực kỳ to lớn trong xét xử, mặc dù Tòa án Hoa Kỳ giống với Tòa án ở các quốc gia khác, họ có quyền xét xử nhưng không có quyền trực tiếp truy tố, khởi tố do đó có thể thấy quyền công tố độc lập gần như tuyệt đối với quyền lực của Tòa án trước khi có quyết định truy tố, khởi tố. Quyền công tố và quyền xét xử có sự tác động qua lại, nhưng nó độc lập với nhau, Toà án không thể và không có thẩm quyền can thiệp sâu vào quyền công tố trước khi có quyết định truy tố, khởi tố.

Việc công tố viên xác định có “căn cứ hợp lý” để truy tố hay không chính là bước nối tiêu biểu nhất thể hiện sự phối hợp và kiểm soát giữa quyền công tố và quyền xét xử. Theo quy định tại Điều 4a Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Mỹ chỉ khi có đủ “căn cứ hợp lý để tin rằng một tội phạm đã được thực hiện bởi chính bị cáo trong quyết định truy tố, thì thẩm phán mới bắt buộc phải ra lệnh bắt giữ”. Đồng nghĩa với việc nếu không đủ căn cứ hợp lý toà án có quyền không ra lệnh bắt giữ và khi đó công tố viên sẽ buộc phải xem xét lại các căn cứ mà mình đã trình bày trong quyết định truy tố. Điều này càng được củng cố khi Bộ Tư pháp Hoa kỳ đưa ra hướng dẫn về việc “không bắt buộc công tố viên phải có sẵn toàn bộ bằng chứng tại thời điểm ra quyết định truy tố”, điều này tạo ra cho công tố viên thời gian để bổ sung các chứng cứ cần thiết để buộc tội bị cáo, bảo đảm không bỏ sót tội phạm (miễn là các chứng cứ này được tìm ra một cách hợp pháp và phải có sẵn khi phiên tòa diễn ra). Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Mỹ đã quy định rõ ràng, trước khi vụ án được đưa ra cho bồi thẩm đoàn xem xét, theo yêu cầu của bị cáo và nhận định của tòa án về các chứng cứ được bên công tố đưa ra, nếu các chứng cứ này không đủ để duy trì và đảm bảo khả năng kết tội của tội danh trong bản luận tội thì tòa án phải tuyên bố trắng án với các tội danh không đủ chứng cứ. Nếu trong trường hợp bồi thẩm đoàn đưa ra quyết định trắng án thì công tố viên hoàn toàn không có quyền kháng cáo, do sự can thiệp về mặt hiến định tại Tu chính án thứ 05 của Hiến pháp Hoa Kỳ đã cấm xét xử hai lần cho cùng một tội danh (Double Jeopardy Clause).

Trong thực tiễn, quyền xét xử có vai trò kiểm soát quyền công tố thông qua việc loại bỏ chứng cứ thu thập trái pháp luật theo nguyên tắc loại trừ (exclusionary rule), bác bỏ cáo trạng khi cơ quan công tố không chứng minh được yếu tố cấu thành tội phạm, hoặc tuyên trắng án khi thiếu căn cứ buộc tội. Đồng thời, tòa án còn là cơ quan giải thích hiến pháp, có quyền tuyên bố một đạo luật hay một quyết định hành pháp là vi hiến, qua đó khẳng định vị thế trung tâm trong việc bảo vệ công lý và quyền con người. Tuy nhiên, một thực tế đáng lưu ý là trên 90% các vụ án hình sự tại Hoa Kỳ không đi đến xét xử công khai mà kết thúc bằng thỏa thuận nhận tội (plea bargaining) giữa công tố và bị cáo, khiến vai trò của phiên tòa nhiều khi mang tính hình thức. Điều này phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa quyền công tố và quyền xét xử: về lý thuyết, tòa án có vị trí tối thượng trong việc bảo đảm công lý, nhưng trên thực tế, quyền năng tùy nghi truy tố của công tố viên đã hạn chế đáng kể khả năng phát huy đầy đủ chức năng kiểm soát của tòa án. Việc kiểm soát lẫn nhau thông qua quyền tuyên bố trắng án và quyền kháng cáo cũng cực kỳ phức tạp, như đã trình bày ngay trước đó nếu tham chiếu theo Tu chính án thứ 05 của Hiến pháp Hoa Kỳ thì công tố viên không có quyền kháng cáo. Tuy nhiên vẫn có những ngoại lệ đặc thù được quy định tại pháp luật liên bang và pháp luật từng bang cho phép công tố viên được quyền kháng cáo, cần lưu ý rằng các quy định này đã được Tòa án bang và Tòa án Liên bang Hoa Kỳ xem xét để bảo đảm không vi phạm Tu chính án số 05 của Hiến pháp Hoa Kỳ.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ việc nghiên cứu quyền công tố và quyền xét xử trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ có thể rút ra nhiều kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.

Thứ nhất, chúng ta cần đưa quyền công tố và quyền xét xử về đúng với bản chất pháp lý và phù hợp với Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Hiện nay quyền công tố được Viện Kiểm sát đại diện nhà nước thực hiện, tuy nhiên quyền công tố ở Việt Nam chưa được trao đầy đủ các nhóm quyền giống như bản chất luật học về quyền công tố, đặc biệt là sự thiếu sót về thẩm quyền truy tố, khởi tố. Chính điều này đã làm giảm quyền công tố trong thực tiễn, khiến quyền công tố bị lép vế hơn trong giai đoạn tiền xét xử vụ án hình sự, nhất là khi so sánh với quyền lực của cơ quan điều tra. Đồng thời quyền xét xử của Toà án cũng cần được tinh chỉnh lại được biệt là trong việc Thẩm phán phải trở thành một người trọng tài thật sự trong quá trình xét xử, việc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm chỉ dành cho VKS và bên bị cáo, hội đồng xét xử sẽ chỉ hỏi cuối cùng để làm rõ các mâu thuẫn, các điểm chưa rõ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa là điều kiện quan trọng nhất để xem xét việc ra bản án, tránh lệ thuộc vào hồ sơ mà VKS chuyển giao.

Thứ hai, vấn đề trách nhiệm giải trình của công tố viên theo pháp luật Hoa Kỳ cũng là nội dung Việt Nam có thể tham khảo. Cơ chế bầu cử và giám sát cộng đồng tại Hoa Kỳ tuy còn bất cập nhưng góp phần nâng cao tính minh bạch, hạn chế sự khép kín trong hoạt động công tố. Việt Nam có thể áp dụng theo hướng công khai hóa báo cáo truy tố, tăng cường giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và cơ quan dân cử đối với hoạt động buộc tội. Việc tăng cường sự giám sát của cộng đồng cũng sẽ phần nào đó bổ trợ cho mối quan hệ giám sát và kiểm soát quyền lực giữa VKS và TA ở Việt Nam, giúp giảm thiểu khả năng sai sót xảy ra và phù hợp các nguyên tắc hiến định được nêu ra trong Hiến pháp 2013 (sửa đổi, bổ sung 2025) về quyền giám sát của công dân.

Thứ ba, mô hình “community prosecution” (công tố cộng đồng) của Hoa Kỳ cho thấy cơ quan công tố không chỉ có trách nhiệm thực hiện quyền công tố mà còn có trách nhiệm trong cả việc phòng ngừa tội phạm. Điều này thực tế rất đang để Việt Nam nghiên cứu và học hỏi, thực tế cả với mô hình của Việt Nam hiện tại và cả trong tương lai, khi xem xét tới mục đấy tồn tại của Toà án và VKS chúng ta đều thấy được việc hạn chế hành vi phạm tội luôn là một trong số các trọng tâm. Do đó chúng ta cần tiếp thu mô hình công tố cộng đồng của hoa kỳ nhưng có sự sửa đổi và chọn lọc. Theo tác giả chúng ta có thể xây dựng mô hình “tư pháp công cộng”, trong đó VKS, TA, công an, chính quyền địa phương cùng với toàn thể người dân sẽ hỗ trợ nhau giảm thiểu nguy cơ tội phạm và kiểm soát tội phạm từ cấp cơ sở. Điều này vừa mang lại lợi ích lâu dài cho quốc gia, vừa giảm thiểu chi phí, vừa thể hiện sự phối hợp phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với người dân, và giúp ổn định xã hội.

Thứ tư, nhiều quốc gia trên thế giới đang dần chuyển mình từ nền công tố hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc truy tố sang việc tích hợp các yếu tố tùy nghi truy tố. Đây là một thời cơ và cũng là thách thức cho Việt Nam trong vấn đề cải cách quyền công tố, từ đó cải cách cả quyền xét xử. Theo ý kiến của tác giả VKS cần xem xét việc áp dụng song song nguyên tắc truy tố bắt buộc và nguyên tắc truy tố tuỳ nghi vào các vụ án hình sự, nhưng cần phải nghiên cứu kỹ tránh áp dụng gây ra sai sót và xung đột pháp luật. Thực tiễn cho thấy nguyên tắc truy tố bắt buộc góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và duy trì bình đẳng giữa các chủ thể phạm tội, song chính sự cứng nhắc của nó đã và đang tạo áp lực quá tải lên bộ máy tư pháp, dễ dẫn đến tâm lý buộc tội bằng mọi giá, thậm chí tiềm ẩn nguy cơ vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Trong khi đó, nguyên tắc tùy nghi truy tố ở Hoa Kỳ và các quốc gia theo hệ thống Common Law đã chứng minh giá trị trong việc tiết kiệm nguồn lực, tập trung xử lý các vụ án nghiêm trọng và tạo dư địa cho công tố viên cân nhắc lợi ích xã hội, mặc dù đi kèm rủi ro lạm quyền và “khoảng trống trách nhiệm” (accountability deficit). Đối với Việt Nam, thay vì chuyển hẳn sang mô hình tùy nghi truy tố thì phương án khả thi hơn là tiếp thu có chọn lọc các yếu tố hợp lý của nó.

Kết luận

Mối quan hệ giữa quyền công tố và quyền xét xử là trục chính của mọi hệ thống tố tụng hình sự, phản ánh cách thức tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Nghiên cứu kinh nghiệm Hoa Kỳ cho thấy công tố được tổ chức theo mô hình đa tầng, có quyền tùy nghi truy tố rất rộng và gắn chặt với nhánh hành pháp, trong khi Tòa án giữ vị trí trung tâm của quyền tư pháp, hoạt động độc lập và có vai trò kiểm soát quyền công tố thông qua cơ chế xét xử công khai, tranh tụng và bồi thẩm đoàn. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền công tố và quyền xét xử theo pháp luật Hoa Kỳ đã giúp chúng ta có được những bài học quý báu về bảo đảm sự độc lập của Tòa án và vai trò trung tâm của xét xử, nghiên cứu áp dụng truy tố tùy nghi vào hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam; bài học về xây dựng mô hình kiểm soát tội phạm toàn dân với đội tiên phong là hai cơ quan nắm quyền công tố và quyền xét xử, đồng thời nghiên cứu cần xây dựng cơ chế giám sát và trách nhiệm giải trình chặt chẽ đối với Viện kiểm sát, cũng như đề cao nguyên tắc tranh tụng, coi kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa là căn cứ quan trọng nhất để ra phán quyết. Những bài học kinh nghiệm thu trong xây dựng và vận hành mối quan hệ giữa quyền công tố và quyền xét xử của pháp luật Hoa Kỳ nếu được áp dụng phù hợp vào thực tế Việt Nam có thể giúp chúng ta nâng cao khả năng phối hợp và kiểm soát lẫn nhau của quyền công tố và xét xử, củng cố nền tảng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo đảm công lý, quyền con người trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.

Tài liệu tham khảo

  1. Gramckow, H. (1997). Community prosecution in the United States. European Journal on Criminal Policy and Research, 5(4), 1–18. https://doi.org/10.1007/BF02737329
  2. Hessick, C. B. (2021). Separation of Powers Versus Checks and Balances in the Criminal Justice System: A Response to Professor Epps. Vanderbilt Law Review En Banc, 74, 162–179.
  3. (https://scholarship.law.vanderbilt.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1011&context=vlreb)
  4. Quốc hội. (2015). Bộ luật Tố tụng hình sự (Luật số 101/2015/QH13, ngày 27/11/2015). Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
  5. Ronald F. Wright & Miller, M. L. (2010). The Worldwide Accountability Deficit for Prosecutors. Washington and Lee Law Review, 67, 1587–1644.
  6. (https://scholarlycommons.law.wlu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1036&context=wlulr)
  7. Federal Rules of Criminal Procedure (Bộ luật Tố Tụng hình sự Liên bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, phiên bảng ngày 01/12/2024) (https://www.uscourts.gov/file/78324/download)
  8. United State Department of Justice, Justice Manual (Sổ tay tư pháp hoa kỳ) (https://www.justice.gov/jm/jm-9-27000-principles-federal-prosecution)
  9. Jeffrey Bellin (2019), “The power of prosecutors”, New York University Law Review, Vol 94 No 2, May 2019, p 172-212 (https://scholarship.law.wm.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=2946&context=facpubs)

ĐẶNG PHƯƠNG LINH

VKSND Khu vực 7 tỉnh Bắc Ninh

VŨ HOÀNG ANH

TAND Khu vực 6 tỉnh Quảng Ninh

LÊ HẢI DƯƠNG

VKSND Khu vực 13 tỉnh Phú Thọ

Các tin khác