Để thực hiện các mục tiêu, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/1/2018. Nhiệm vụ cơ bản của hai Bộ luật này là bảo vệ công lý và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Qua hơn 03 năm có hiệu lực và đi vào cuộc sống, hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng mới (được sửa đổi, bổ sung) đã và đang phát huy những mặt và những nội dung tích cực, đóng góp vào mục tiêu và nhiệm vụ quốc gia là xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, thực hành quyền tư pháp hình sự tiên tiến, văn minh, hạn chế những bất cập yếu kém trong hoạt động tư pháp, thực hiện các biện pháp hạn chế và phòng tránh oan sai cho người bị buộc tội. Một trong nhiều biện pháp của hệ thống pháp luật hình sự mới đó chính là các quy định bổ sung vào mô hình tố tụng, từ mô hình thẩm vấn buộc tội, sang mô hình tố tụng kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng.
Điều 26 BLTTHS 2015 quy định về tranh tụng trong xét xử được bảo đảm như sau:
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án… Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Nội dung nêu trên là một trong 33 nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2015. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định tại Chương XXI về tranh luận tại phiên tòa, nội dung quy định trình tự hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự mà chưa được cụ thể thành nguyên tắc như BLTTHS 2015.
Trong các nội dung trên, theo chúng tôi, hai thuật ngữ pháp lý “tranh tụng” và “tranh luận” cần được phân biệt rõ. Căn cứ vào so sánh nội dung của BLTTHS 2015 và 2003, chúng ta thấy: Tranh luận là một trình tự tố tụng tại phiên tòa hình sự; còn việc tranh tụng được hiểu là toàn bộ quá trình hoạt động của Luật sư với tư cách là người bào chữa hoặc bảo vệ trong một vụ án kể từ khi được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thụ lý vụ án, đăng ký tham gia đến khi Luật sư chấm dứt không tham gia bằng các lý do khác nhau, hoặc đến khi kết thúc vụ án bằng bản án có hiệu lực pháp luật. BLTTHS 2015 đã làm rõ định nghĩa của thuật ngữ này tại Điều 26 nêu trên.
Do đó, có thể hiểu tranh tụng là thuật ngữ có nội hàm rộng hơn tranh luận, bao trùm toàn bộ quá trình hoạt động chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà luật sư là một bên tham gia được pháp luật tố tụng quy định với tư cách người tham gia tố tụng, có thể là người bào chữa hoặc là người bảo vệ cho bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Theo quy định của BLTTHS, Luật sư được tham gia kể từ khi có các hoạt động xác minh thu thập chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền (với tư cách người tư vấn và bảo vệ quyền lợi cho người, tổ chức bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố). Khi vụ việc chuyển sang một giai đoạn tố tụng khác thì kể từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can một chủ thể tội phạm thì luật sư sẽ thực hiện vai trò là người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ cho các đương sự theo quy định.
Hiện nay, hoạt động tranh tụng hình sự của Luật sư được quy định cơ bản trong các nguồn pháp luật về tố tụng hình sự. Đặc biệt, một số điểm mới đáng chú ý của BLTTHS 2015 so với hệ thống pháp luật tố tụng hình sự trước đây có thể nói là cơ sở pháp lý thuận lợi để nâng cao vai trò, vị thế của Luật sư trong hoạt động tranh tụng. Từ nhiệm vụ và mục tiêu hướng tới bảo vệ quyền con người, chính là việc bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền được bào chữa, quyền được bảo vệ của người bị buộc tội và đương sự trong vụ án hình sự.
Một số các quy định mới của BLTTHS 2015 như Luật sư với vai trò là người bào chữa được tham gia từ trước khi khởi tố vụ án đó là giai đoạn xác minh, thu thập chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền được thu thập chứng cứ của người bào chữa, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 73. So sánh với BLTTHS 2003, Luật sư với vai trò là người bào chữa chỉ được thu thập tài liệu, đồ vật là một dạng nguồn chứng cứ; sau đó giao nộp cho các cơ quan thụ lý vụ án để tiến hành đánh giá. Những tài liệu, đồ vật được giao nộp đó chỉ có thể được chuyển hóa thành chứng cứ mà không chắc chắn có được sử dụng làm chứng cứ phục vụ mục đích bào chữa của luật sư; người bào chữa có quyền được gặp người bị buộc tội tại nơi giam giữ... Có thể khẳng định rằng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự hiện nay đã và đang là cơ sở, điều kiện thuận lợi cho luật sư với vai trò là người bào chữa thực hiện quyền bào chữa của mình để góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động tư pháp hình sự ở nước ta.
Tuy nhiên, thực trạng hoạt động tranh tụng của Luật sư hiện nay trong lĩnh vực hình sự chưa đạt được theo như mong muốn, kỳ vọng của xã hội, cũng như các mục tiêu về cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước. Một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2015 là bản án, quyết định của tòa phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Nội dung này khẳng định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng nói chung và hoạt động đánh giá chứng cứ và tranh tụng tại phiên tòa nói riêng; thể hiện tính khách quan, bình đẳng, toàn diện, công khai, dân chủ của tư pháp hình sự Nhà nước. Đồng thời, hoạt động đánh giá chứng cứ và tranh tụng tại phiên tòa là kết quả của một quá trình giải quyết vụ án kể từ các hoạt động xác minh, điều tra, truy tố đến xét xử.
Hiện nay, dù tỉ lệ các phiên tòa có Luật sư và người bào chữa tham gia trong các vụ án hình sự đã được tăng lên đáng kể, nhưng về chất lượng của hoạt động bào chữa, bảo vệ trong quá trình tố tụng vụ án hình sự chưa cao. Thực trạng này dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và các chủ thể được bảo vệ trong quan hệ pháp luật hình sự trong một vụ án chưa được bảo đảm một cách tốt nhất theo quy định của pháp luật. Một số vụ án còn nhiều sai sót trong hoạt động tố tụng từ phía những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng. Tỉ lệ về các vụ án hủy, án sửa còn khá lớn cũng phản ánh được chất lượng tranh tụng chưa đạt được như yêu cầu. Những hạn chế này đã được nêu ra trong quá trình sửa đổi hệ thống pháp luật tố tụng hình sự; kỳ vọng khi có Luật sư và người bào chữa tham gia sẽ hạn chế được những vi phạm tố tụng cả về mặt hình thức lẫn nội dung của các cơ quan và người tiến hành tố tụng trong hoạt động tư pháp hình sự.
Một số tồn tại và giải pháp
Thứ nhất, các quy định về tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề Luật sư: Theo quy định của pháp luật về Luật sư có thể nói không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư trong thời gian hiện nay và yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp. Ví dụ như các quy định về điều kiện được miễn đào tạo hoặc miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề đã tạo ra một khoảng trống về nhận thức nghề, đặc biệt những đặc thù của nghề nghiệp Luật sư, những nội dung quy định bắt buộc về quy tắc đạo đức của Luật sư, phạm vi khách thể nghề trong dịch vụ pháp lý thực hiện. Đây là một vấn đề lớn của Nhà nước và giới Luật sư, cần được khảo sát từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về luật sư để tổng hợp, đánh giá và tiến hành sửa đổi Luật Luật sư cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Thứ hai, về đào tạo và bồi dưỡng Luật sư: Hiện nay, Học viện Tư pháp là cơ sở duy nhất đào tạo nghề luật sư nhằm đáp ứng cả về số lượng và yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp pháp. Mặc dù đã được Nhà nước quan tâm lớn về cơ sở vật chất, chương trình và các điều kiện giảng dạy, nhưng thực tế mới chỉ đào tạo đại trà về phương pháp tiếp cận kỹ năng chung của Luật sư, mà chưa đào tạo theo những lĩnh vực chuyên sâu, trong đó đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của Luật sư trong vụ án hình sự. Điều này có nghĩa là chúng ta có đào tạo nghề luật sư nhưng chưa đào tạo chuyên ngành, chuyên sâu kỹ năng Luật sư tranh tụng hình sự. Chưa có tổ chức, cơ quan hay đơn vị nào thực hiện việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng tranh tụng nói chung và kỹ năng tranh tụng hình sự nói riêng.
Thực tế cho thấy, bất kể một Luật sư nào sau khi được cấp thẻ luật sư cũng có thể đăng ký tham gia tranh tụng trong một vụ án hình sự. Về mặt quy trình, Luật sư đó có thể thực hiện tốt theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, xuất phát từ sự cần thiết trong tranh tụng để bào chữa, bảo vệ tốt nhất cho khách hàng, từ nội dung kiến thức lý luận nền tảng, các phương pháp, kỹ năng được học trong chương trình đào tạo nghề cần phải được chuyển tải thành các kỹ năng thực tế mang tính sáng tạo, phù hợp với đặc điểm từng loại án, vụ án và từng đối tượng mà Luật sư bào chữa hoặc bảo vệ trong vụ án hình sự.
Nhiều Luật sư tham gia vào các vụ án hình sự chưa đào sâu suy nghĩ để tìm ra phương pháp, định hướng tốt để thực hiện hoạt động tranh tụng mà đôi khi còn coi trọng về hình thức nhằm quảng bá hình ảnh của cá nhân. Đặc biệt, có những Luật sư đến tòa tham gia tranh tụng chỉ để cho khách hàng và người thân của họ hài lòng và thỏa mãn cảm xúc, từ đó ứng xử, đối xử với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, kể cả đồng nghiệp và những người tham gia tố tụng khác với những lời nói, hành động xúc phạm, vi phạm đạo đức ứng xử nghề Luật sư. Cách ứng xử như vậy làm xấu đi hình ảnh Luật sư trước các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và trước dư luận xã hội. Trong khi thực hiện tranh luận tại phiên tòa với các Công tố viên, họ không có các kỹ năng mềm, không xác định được định hướng tốt, không nắm vững cơ sở lý luận của pháp luật hình sự như các quy định về tội phạm, cấu thành tội phạm, phân loại tội phạm… cho đến các cơ sở lý luận cơ bản về chứng cứ, nguồn chứng cứ như thẩm quyền thu thập, các phương pháp thu thập sử dụng và đánh giá chứng cứ…, từ đó xa rời các nội dung cần tranh luận làm sáng tỏ khách quan sự thật của vụ án.
Ngoài những vấn đề hạn chế về nội dung trong hoạt động tranh tụng còn những hạn chế về phong cách, hành vi xử sự chưa đạt chuẩn mực, văn minh của luật sư khi tham gia hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự. Nhiều luật sư thể hiện kỹ năng tranh tụng rất hạn chế như: Kỹ năng nói, trình bày, tranh luận, cử chỉ, biểu đạt với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây bức xúc cho những người tiến hành và tham gia tố tụng, ảnh hưởng chung đến phiên tòa.
Kỹ năng tranh tụng và tham gia phiên tòa đã và sẽ là một yêu cầu cấp bách cho việc bồi dưỡng và đào tạo Luật sư tranh tụng hình sự, để hướng tới góp phần vào sự hoàn thiện pháp luật, xây dựng môi trường tố tụng dân chủ, văn minh trong thực hành quyền tư pháp của Nhà nước. Nâng cao và hoàn thiện kỹ năng tranh tụng cho Luật sư chính là việc nâng cao vị thế của Luật sư trước các cơ quan tiến hành tố tụng và trước sự tin tưởng, kỳ vọng của xã hội.
Trong thời gian tới đây, để phát huy tốt nhất các hoạt động tranh tụng của Luật sư trong các phiên tòa hình sự, thực hành quyền tư pháp hình sự của Nhà nước cần phải tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng với các chủ đề chuyên sâu về kỹ năng tranh tụng các vụ án hình sự. Trong đó phải đưa ra những yêu cầu về cải tiến và chuẩn hóa mạnh mẽ đội ngũ Luật sư tranh tụng. Tăng cường đào tạo kỹ năng thực tế mang tính sáng tạo phù hợp với điều kiện tư pháp của Việt Nam trong tranh tụng hình sự, đặc biệt là các kỹ năng mềm để hướng tới hoạt động của Luật sư trong lĩnh vực tranh tụng hình sự trở thành nghệ thuật tranh tụng.
Thứ ba, tăng cường thực hiện việc quản lý nhà nước và hoạt động tự quản của Luật sư. Cần tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các quan quản lý nhà nước theo địa hạt và hoạt động tự quản của các đoàn luật sư trong nhiệm vụ quản lý luật sư và hành nghề Luật sư. Qua đó, kịp thời phát hiện, uốn nắn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật Luật sư, chưa đúng, chưa chuẩn mực với quy định của quy tắc đạo đức nghề Luật sư. Cần đặc biệt quan tâm cách ứng xử của các Luật sư tranh tụng hình sự, để các Luật sư hiểu rõ dù các hoạt động tranh tụng của Luật sư mang tính độc lập nhưng vẫn phải tuân thủ pháp luật chung và Bộ quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp.
Đoàn Luật sư các tỉnh, thành phố hoặc Liên đoàn Luật sư Việt Nam có thể thành lập các Câu lạc bộ Luật sư tranh tụng hình sự; từ đó có các không gian sinh hoạt riêng giữa các Luật sư có kinh nghiệm trao đổi, thảo luận, đúc rút kinh nghiệm trong hoạt động tranh tụng các vụ án hình sự. Ngoài ra, với tư cách là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, với chức năng đại diện cho Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư các tỉnh, thành phố cần kịp thời kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động tranh tụng của Luật sư theo tinh thần của Hiến pháp và pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự.
Thạc sĩ, Luật sư HOÀNG VĂN HƯỚNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Hoàng Hưng, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Một số vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục đăng ký bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam