Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp

29/12/2021 17:46 | 2 năm trước

(LSVN) - Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân” (Điều 3); “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Trong các văn bản pháp luật hiện hành đều có quy định về khả năng để mọi công dân tham vào hoạt động tư pháp và giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trong hoạt động tư pháp được thể hiện bằng việc tham gia hoạt động xét xử của Hội thẩm. Đây là chế định thể hiện rõ nét nhất quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp. Chế định Hội thẩm mặc dù đã được pháp luật quy định, tuy nhiên trong thực tế áp dụng vẫn còn những bất cập nhất định.

Ảnh minh họa.

Thực trạng tham gia của nhân dân trong hoạt động tư pháp

Việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện thông qua chế định Hội thẩm. Sự tham gia của Hội thẩm vào hoạt động xét xử càng củng cố thêm mối quan hệ giữa Tòa án và nhân dân, nâng cao tính khách quan trong hoạt động xét xử. Với kinh nghiệm cuộc sống của mình cùng với kiến thức chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm đóng góp rất nhiều trong quá trình giải quyết vụ án. Sự tham gia của Hội thẩm vào hoạt động xét xử có ảnh hưởng tích cực đối với bản án, quyết định của Tòa án, làm tăng tính pháp chế và tính có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án.

Trong hoạt động xét xử đòi hỏi người Hội thẩm lương tâm, trí thông minh và trái tim nhiệt tình. Hội thẩm mang đến phiên tòa những kinh nghiệm của cuộc sống, những nghi ngờ, những lo ngại đối với số phận của con người, đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những ưu việt đó của người Hội thẩm được hòa hợp một cách có tổ chức với những ưu việt của người Thẩm phán và cần được bổ sung cho nhau. Sự thống nhất tất cả ưu việt đó, những bản chất tốt đẹp đó sẽ tạo ra một sự công bằng.

Lịch sử phát triển của nền tư pháp nước ta cho thấy Hội thẩm giữ vai trò rất quan trọng, bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động xét xử. Là người đại diện cho nhân dân, Hội thẩm tham gia trực tiếp với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử, mang tiếng nói của nhân dân và xã hội vào việc giải quyết vụ án, góp phần bảo đảm công lý. Sự tham gia tích cực và có hiệu quả của Hội thẩm đã tôn vinh thêm vai trò và uy tín của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Sự tham gia hoạt động xét xử của Hội thẩm được quy định ngay từ Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục được kế thừa và quy định trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013. Trong Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia được quy định tại khoản 1 Điều 103 như sau: “Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Đây là nguyên tắc nhằm giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án được công bằng, dân chủ, khách quan.

Điều 8 Luật Tổ chức TAND năm 2014 tiếp tục quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của Luật Tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật. Chế định Hội thẩm thể hiện tư tưởng lấy dân làm gốc, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp.

Theo quy định của Điều 84 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Hội thẩm TAND bao gồm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm Quân nhân. Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND theo phân công của Chánh án Tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm Quân nhân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án Quân sự theo phân công của Chánh án Tòa án nơi được cử làm Hội thẩm Quân nhân. Hội thẩm Quân nhân chỉ tham gia xét xử các vụ án hình sự vì Tòa án Quân sự chỉ có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự.

Điều 86 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định: TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp giới thiệu để HĐND có thẩm quyền bầu Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm Quân nhân Tòa án Quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.

Theo quy định của pháp luật thì Hội thẩm chỉ tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm. Trong vụ án hình sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.

Điều 85 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm như sau:

1. Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.

2. Có kiến thức pháp luật.

3. Có hiểu biết xã hội.

4. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Tổ chức và hoạt động của Hội thẩm được thực hiện theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm được ban hành kèm theo Nghị quyết 1213/2016/UBTVQH13 ngày 16/6/2016 của UBTV Quốc hội. Theo đó, Đoàn Hội thẩm là hình thức tổ chức tự quản của các Hội thẩm, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch; được thành lập ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (cấp huyện); quân khu và tương đương (cấp quân khu), khu vực nơi có Tòa án Quân sự khu vực. Hội thẩm được bầu hoặc cử để thực hiện nhiệm vụ xét xử ở Tòa án nào thì tham gia sinh hoạt tại Đoàn Hội thẩm nơi có Tòa án đó. Đoàn Hội thẩm gồm Đoàn Hội thẩm Nhân dân và Đoàn Hội thẩm Quân nhân.

Giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp

Hội thẩm có vai trò quan trọng và không thể thiếu được của trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, trước yêu cầu cải cách tư pháp, chế định Hội thẩm cần phải có những cải cách đáng kể mới đáp ứng được nhiệm vụ xét xử hiện nay và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.

Mặc dù các quy định hiện nay của Hiến pháp, pháp luật liên quan đến Hội thẩm đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện bảo đảm ngày càng tốt hơn cho sự tham gia của nhân dân trong hoạt động giải quyết, xét xử các loại vụ án. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy tổ chức và hoạt động của Hội thẩm cũng cho thấy một số bất cập, cụ thể như sau:

Về tính đại diện nhân dân của Hội thẩm

Hội thẩm là người đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu để HĐND bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác hoặc đã nghỉ hưu, nên chưa thực sự đại diện đầy đủ cho tính nhân dân của chức danh này.

Bên cạnh đó, một số Hội thẩm là cán bộ đương chức nên công việc chuyên môn khá bận, ít có thời gian tham gia xét xử, nhiều trường hợp phải hoãn phiên tòa vì Hội thẩm không thể tham gia được. Từ đó, dẫn đến việc Hội thẩm tham gia xét xử không đều.

Vì vậy, việc lựa chọn nhân sự để bầu làm Hội thẩm cần lựa chọn những người có uy tín, kiến thức và hiểu biết trên các lĩnh vực đời sống xã hội, các khu vực dân cư khác nhau, thì mới bảo đảm đúng ý nghĩa của chế định này. Có ý kiến cho rằng cần tuyển chọn những người có kiến thức pháp luật và thậm chí có cả kỹ năng trong hoạt động xét xử để bầu làm Hội thẩm. Hiện nay, số cán bộ, công chức trước đây công tác trong lĩnh vực tư pháp nay đã nghỉ hưu và họ tham gia sinh hoạt tại hội luật gia cấp tỉnh và cấp huyện. Đây là nguồn bổ sung dồi dào cho đội ngũ Hội thẩm vừa đáp ứng yêu cầu về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, vừa đáp ứng yêu cầu về tính đại diện của nhân dân. Vì vậy, cần nghiên cứu để tăng số lượng Hội thẩm là Hội viên Hội Luật gia các cấp.

Về số lượng và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử

Liên quan tới số lượng và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử, qua nghiên cứu cho thấy hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc quy định về số lượng Hội thẩm và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử như hiện nay là phù hợp. Vấn đề cơ bản là phải có cơ chế để lựa chọn những người hiểu biết pháp luật, có kiến thức xã hội để bầu làm Hội thẩm Tòa án, đồng thời cần quan tâm làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án.

- Quan điểm thứ hai cho rằng, để bảo đảm đúng bản chất của chế định Hội thẩm, cần quy định số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử nhiều hơn số lượng Thẩm phán, như vậy mới bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án.

- Quan điểm thứ ba cho rằng, công tác xét xử là một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Vì vậy, Hội đồng xét xử phải bảo đảm tính chuyên nghiệp cao, cần quy định số lượng Thẩm phán nhiều hơn số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử.

- Quan điểm thứ tư cho rằng, để cân bằng tính chuyên nghiệp và tính đại diện của nhân dân trong hoạt động xét xử thì số lượng Hội thẩm và Thẩm phán trong Hội đồng xét xử là bằng nhau. Trong trường hợp tỉ lệ biểu quyết trong Hội đồng xét xử bằng nhau thì ưu tiên quyết định thuộc về bên Thẩm phán

- Quan điểm thứ năm cho rằng, cần nghiên cứu chế định về Bồi Thẩm đoàn như nhiều nước trên thế giới đang áp dụng hoặc kết hợp cả chế định Hội thẩm và Bồi Thẩm đoàn như ở Liên bang Nga .

Theo chúng tôi, về nguyên tắc vẫn phải duy trì chế định Hội thẩm. Lịch sử của nền tư pháp ở Việt Nam cho thấy Hội thẩm luôn luôn là thành phần không thể thiếu được trong Hội đồng xét xử. Để xác định số lượng và quyền hạn của Hội thẩm cần theo hướng:

- Nghiên cứu để xác định số lượng và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Việc xét xử sơ thẩm đối với các vụ án này không nhất thiết có thành phần giống nhau là một Thẩm phán và hai Hội thẩm hoặc hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Số lượng và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử vụ án hình sự có thể khác so với vụ việc dân sự, vụ án hành chính.

- Nghiên cứu để áp dụng thành phần trong Hội đồng xét xử ngang bằng nhau. Trong trường hợp tỉ lệ biểu quyết ngang nhau thì ưu tiên bên Thẩm phán.

- Nghiên cứu để xác định đúng vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Không nên quy định Hội thẩm có các quyền như Thẩm phán. Ví dụ, Điều 326 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Quy định như vậy sẽ gây sức ép lên vai Hội thẩm, bởi vì Hội thẩm không phải là người xét xử chuyên nghiệp như Thẩm phán được đào tạo bài bản để xét xử. Một trong những vấn đề quan trọng nhất phải được giải quyết khi nghị án là “có hay không có căn cứ kết tội bị cáo”. Trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, áp dụng thủ tục xét xử có Bồi Thẩm đoàn quy định quyền của Bồi Thẩm đoàn là trả lời câu hỏi bị cáo có tội không?

- Nghiên cứu để mở rộng các loại án về tội ít nghiêm trọng, tranh chấp nhỏ không nhất thiết phải có sự tham gia của Hội thẩm, chỉ cần xét xử bằng một Thẩm phán.

Ngoài ra, có ý kiến đề nghị nghiên cứu áp dụng chế định bồi thẩm đoàn song song với chế định Hội thẩm. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định bồi thẩm đoàn cần cân nhắc thật kỹ với điều kiện của Việt Nam, khi người dân chưa “sẵn sàng” làm bồi thẩm viên. Mô hình bồi thẩm đoàn rất khác và xa lạ đối với truyền thống pháp luật của Việt Nam. Cơ chế bồi thẩm đoàn có thể là sự phiền hà cho người dân khi được chọn làm bồi thẩm viên .

Về tiêu chuẩn của Hội thẩm

Trong các tiêu chuẩn của Hội thẩm nói trên thì tiêu chuẩn có kiến thức pháp luật là vấn đề đang được các nhà khoa học và người làm công tác thực tiễn quan tâm. Pháp luật quy định khi xét xử Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và ngang quyền với Thẩm phán. Muốn độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và ngang quyền với Thẩm phán thì Hội thẩm phải có kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ nhất định.

Nếu Hội thẩm không hội đủ kiến thức pháp luật cần thiết thì khó có thể độc lập để đưa ra quyết định của mình. Khi đó dễ bị tác động từ phía Thẩm phán hoặc dư luận xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là kiến thức pháp luật của Hội thẩm có đến mức nào là đủ để họ thực hiện sự độc lập của mình trong hoạt động xét xử. Thực tiễn cho thấy những Hội thẩm là cán bộ Tòa án, Kiểm sát về hưu thì có thể chủ động, tích cực tham gia hoạt động xét hỏi tại phiên tòa. Có những Hội thẩm khi tham gia xét xử chỉ ngồi im lặng hoặc đặt câu hỏi lạc lõng, xa rời nội dung vụ án vì không có đủ thời gian hoặc không có khả năng nghiên cứu hồ sơ vụ án.

Một vấn đề đặt ra cần giải quyết đó là sự chênh lệch về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giữa Thẩm phán là người xét chuyên với Hội thẩm là người xét xử không chuyên nghiệp. Với tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ của Hội thẩm khác xa so với Thẩm phán thì Hội thẩm sẽ tham gia vào việc giải quyết vụ án như thế nào? Làm thế nào để Hội thẩm độc lập khi cùng Thẩm phán quyết định nhiều vấn đề của vụ án. Với số lượng đa số trong thành phần Hội đồng xét xử, Hội thẩm có lợi thế khi biểu quyết. Nhưng lợi thế về số lượng là chưa đủ nếu như sự biểu quyết chỉ dựa trên cơ sở cảm tính mà không có lập luận về mặt chuyên môn, nhất là trong trường hợp ý kiến của Hội thẩm khác với ý kiến của Thẩm phán. Hội thẩm phải bảo vệ lập luận của mình, nếu không lập luận được thì hoặc phải theo ý kiến của Thẩm phán hoặc là biểu quyết theo ý của mình khác với ý của Thẩm phán. Điều đó dễ dẫn đến sai sót trong hoạt động xét xử. Theo thống kê, trong nhiệm kỳ 2016-2021 chỉ có 35 lượt Hội thẩm không thống nhất với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và sau đó chỉ có 04 vụ án được Tòa án cấp phúc thẩm ra phán quyết theo quan điểm của Hội thẩm .

Một vấn đề khác cũng liên quan đến tiêu chuẩn Hội thẩm là tuổi tác, sức khỏe của Hội thẩm. Tuổi của Hội thẩm thường cao vì đa phần họ là cán bộ hưu trí. Thực tế số lượng vụ án Hội thẩm là cán bộ hưu trí được phân công tham gia là tương đối cao vì nhiều lý do khác nhau như những Hội thẩm này có nhiều thời gian, kinh nghiệm và trách nhiệm. Xét xử là công việc nặng nhọc, phức tạp, có những vụ án kéo dài không chỉ vài ngày, vài tuần, thậm chí vài tháng, cần huy động nhiều công sức, trí tuệ và thời gian và vì thế không thể là công việc phù hợp với người đã về hưu, người cao tuổi.

Theo quy định của pháp luật thì người được bầu làm Hội thẩm chỉ cần có kiến thức pháp lý mà không quy định một tiêu chuẩn tối thiểu, trong khi đó, cùng tham gia xét xử với họ là những Thẩm phán có trình độ cử nhân luật, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử. Mặt khác, Hội thẩm gần như không phải chịu bất kỳ trách nhiệm hành chính nào liên quan đến chất lượng xét xử, nên mặc dù chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các phán quyết của Hội đồng xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế không tránh khỏi khi xét xử các Hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán.

Xử lý vấn đề này, có ý kiến cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm theo hướng quy định người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm cần phải có trình độ pháp lý nhất định, ví dụ tối thiểu phải có bằng Trung cấp pháp lý hoặc ít nhất phải qua một lớp bồi dưỡng về pháp luật từ 3-6 tháng. Trong khi chưa sửa đổi được các quy định của pháp luật thì các cơ quan có liên quan cần phối hợp tốt hơn với Tòa án trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, theo đó, HĐND xem xét hỗ trợ thêm kinh phí cho Tòa án tổ chức nhiều hơn các lớp tập huấn cho Hội thẩm, đặc biệt là tập huấn các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ chức rút kinh nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù… Tuy nhiên, việc bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho Hội thẩm như thế nào cho hiệu quả là vấn đề cần nghiên cứu. Vấn đề ở chỗ sự tham gia của Hội thẩm vào hoạt động xét xử với tư cách là người đại diện cho nhân dân chứ không phải là người “Thẩm phán” hay “Hội thẩm chuyên nghiệp”. Không nên quy định cho họ quyền hạn và trách nhiệm quá lớn so với khả năng và trình độ của họ. Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, không nên quy định tiêu chuẩn Hội thẩm quá cao hoặc phải có trình độ pháp lý như Thẩm phán thì sẽ rơi vào tình trạng Thẩm phán hóa Hội thẩm, làm cho hoạt động xét xử mất đi tính xã hội, không còn tính chất của đại diện nhân dân tham gia xét xử .

Thực tế cho thấy, sự tham gia của Hội thẩm có tác dụng tích cực đối với hoạt động xét xử, nhưng cũng có những khó khăn nhất định. Đa số các Hội thẩm còn hiểu biết ít về pháp luật lại không được đào tạo chuyên ngành nên khi tham gia vào hoạt động xét xử thường bị động, lúng túng khi gặp vấn đề mang tính chuyên môn sâu. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến chế độ đào tạo, tập huấn, trang bị kiến thức pháp lý cần thiết cho Hội thẩm để họ tham gia vào hoạt động xét xử có hiệu quả hơn và tránh được hiện tượng tham gia có tính chất hình thức, cho đúng quy định của pháp luật.

Về tiêu chuẩn có kiến thức pháp luật đối với Hội thẩm, theo chúng tôi không cần sửa đổi, bổ sung. Vấn đề là quy định quyền hạn của Hội thẩm, chỉ quy định cho họ những quyền phù hợp với tính chất của người đại diện của nhân dân, nói lên tiếng nói của nhân dân.

Về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm

Hiện nay, các địa phương có thành lập đoàn Hội thẩm, nhưng chỉ mang tính chất tự nguyện để các Hội thẩm nhóm họp, trao đổi các vấn đề về công tác hoặc giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Trong khi đó, xét xử các loại vụ án là lĩnh vực nhạy cảm dễ bị sức ép, tác động và rất dễ phát sinh tiêu cực.

Do đó, HĐND và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp cần xây dựng quy chế phối hợp và thực hiện tốt hơn việc quản lý, giám sát đối với Hội thẩm từ việc thực thi nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức đến việc tạo điều kiện thuận lợi để họ được bố trí thời gian hợp lý tham gia công tác tại Tòa án, cũng như bảo đảm các biện pháp bảo vệ Hội thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết.

Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của đoàn Hội thẩm cho thấy mô hình tự quản của đoàn Hội thẩm đã góp phần bảo đảm tương đối giữa đoàn Hội thẩm và TAND cùng cấp, nhằm thực hiện tốt nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của Hội thẩm còn một số bất cập như sau:

- Ai giám sát sự tham gia của các Hội thẩm sau khi được HĐND bầu, Hội thẩm chịu trách nhiệm như thế nào trước HĐND, trước đoàn Hội thẩm, Tòa án và xã hội.

- Tòa án không ràng buộc được Hội thẩm, nếu Hội thẩm từ chối tham gia hoặc đã nhận tham gia mà vắng mặt thì có thể quy trách nhiệm của Hội thẩm như thế nào. Hội thẩm chịu trách nhiệm như thế nào khi có án oan sai. Việc phân công Hội thẩm tham gia xét xử, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm được tiến hành thế nào?

- Việc phân công tham gia xét xử chưa đồng đều, chủ yếu tập trung vào Hội thẩm là cán bộ hưu trí. Đây là hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Hội thẩm là cán bộ hưu trí vì lý do ít có điều kiện cập nhật thông tin, sức khỏe giảm sút… nên khó có thể độc lập trong việc đưa ra phán quyết cùng Thẩm phán. Việc phân công tập trung vào một số Hội thẩm nhất định nên không bảo đảm khách quan, không thực hiện được nguyên tắc ngẫu nhiên trong việc phân công Hội thẩm tham gia xét xử.

- Cơ chế quản lý, giám sát đối với Hội thẩm còn chưa chặt chẽ. Hiện nay, chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm về hiệu quả và chất lượng hoạt động của Hội thẩm. Chế độ, chính sách đối với Hội thẩm chữa được quan tâm đúng mức.

- Chất lượng Hội thẩm chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Điều này có một phần nguyên nhân do quy trình lựa chọn nhân sự làm Hội thẩm chưa hợp lý, mang nặng tính cơ cấu, giảm tính ngẫu nhiên, tăng sự chi phối của các cơ quan đối với Hội thẩm, giảm sự độc lập của Hội thẩm, không bảo đảm tính khách quan trong xét xử.

- Nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trò, quyền hạn của Hội thẩm khi tham gia xét xử. Còn có nhận thức xem nhẹ sự tham gia của Hội thẩm, cho rằng sự tham gia của Hội thẩm mang tính hình thức .

Theo quy định tại Điều 91 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Tòa án Quân sự quân khu và tương đương, Tòa án Quân sự khu vực phân công Hội thẩm tham gia xét xử. Để bảo đảm tính khách quan trong việc phân công Hội thẩm cần sửa đổi quy định này theo hướng Tòa án yêu cầu và đoàn Hội thẩm sẽ cử Hội thẩm tham gia xét xử. Quy định này tương tự trường hợp Luật sư chỉ định. Khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu thì Đoàn Luật sư sẽ cử Luật sư tham gia tố tụng.

Để bảo đảm công tác tổ chức và quản lý Hội thẩm cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quy chế Tổ chức và hoạt động của đoàn Hội thẩm (ban hành kèm theo Nghị quyết số 1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của UBTV Quốc hội khóa XIII) theo hướng nâng cao và bảo đảm vai trò tự quản của đoàn Hội thẩm và làm rõ hơn cơ chế quản lý, giám sát và hỗ trợ đối với tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.

Ngoài ra cần sửa đổi, bổ sung pháp luật tố tụng theo hướng quy định một cách hợp lý số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử. Mặc dù đã bỏ nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, tuy nhiên, trong pháp luật tố tụng vẫn quy định Hội thẩm phải tham gia quyết định tất cả các vấn đề như Thẩm phán. Vì vậy, pháp luật tố tụng cần loại bỏ những quyền tố tụng liên quan đến khả năng về chuyên môn, nghiệp vụ mà Hội thẩm không có, chỉ cần quy định những quyền phù hợp với Hội thẩm với tính chất là người đại diện của nhân dân như quy định của một số nước trên thế giới áp dụng đối với bồi thẩm đoàn. Bồi Thẩm đoàn là cơ chế trao quyền cho đại diện nhân dân toàn quyền quyết định về nội dung - chứng cứ trong vụ án có đầy đủ để kết tội bị cáo hay không. Thẩm phán quyết định hình phạt sau khi bồi thẩm đoàn kết tội bị cáo .

Tiến sĩ NGUYỄN VĂN TUÂN

Một số vấn đề về phục hồi vụ án hình sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm