Phòng chống tham nhũng từ khía cạnh văn hóa và pháp lý

07/07/2022 22:54 | 2 năm trước

(LSVN) - Tham nhũng là hiện tượng của mọi nhà nước, tùy vào những đặc điểm về văn hóa, lịch sử, pháp lý, năng lực quản lý, điều hành mà mức độ tham nhũng có sự khác nhau về quy mô và mức độ. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI), tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là hậu quả tất yếu của quản lý xã hội yếu kém, của sự suy thoái về đạo đức xã hội. Nó không chỉ làm mất đi một nguồn lực to lớn của xã hội mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của nhân dân vào chế độ, là nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, đấu tranh phòng chống tham nhũng là cuộc chiến đấu để bảo vệ Đảng và chế độ. Bài viết này đề cập đến phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam từ khía cạnh văn hóa và pháp lý.

Ảnh minh họa.

Dưới góc nhìn văn hóa, tham nhũng là hành vi phản văn hóa. Văn hóa, tự thân nó luôn là sự phản ánh những giá trị tốt đẹp, chân, thiện, mỹ để hướng tới một xã hội nhân văn. Tham nhũng là hành vi có ý thức đi ngược lại với văn hóa. Sự lợi dụng quyền lực, uy tín tổ chức, địa vị xã hội... để mưu lợi bất chính cho cá nhân, là sự phản lại tinh thần cộng đồng, tinh thần dân tộc trong quá trình phấn đấu cho mục tiêu vì một xã hội văn minh, phát triển và tiến bộ.

Tham nhũng là biểu hiện cụ thể của sự suy đồi về đạo đức xã hội, đạo đức công vụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính trị và hành chính nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân. Đạo đức xã hội nói chung và đạo đức công vụ nói riêng là những biểu hiện cụ thể của công bằng, công lý, lẽ phải được xã hội thừa nhận. Hành vi tham nhũng là hành vi mưu cầu bất chính về lợi ích vật chất. Tham nhũng vật chất là nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của cá nhân, nhưng xét trong quan hệ ý nghĩa cuộc sống nêu trên, thì nó lại chính là nguyên nhân và kết quả của hành vi có ý thức và là hành vi đi ngược lại các giá trị xã hội, giá trị phổ quát có ý nghĩa cuộc sống đối với mọi thành viên trong cộng đồng. Tham nhũng gia tăng, không được kiểm soát điều đó đồng nghĩa với đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp đến sự ổn định xã hội. Từ những nét đẹp vốn có theo lệ “miếng trầu là đầu câu chuyện” đến việc người dân hễ có công việc gì liên quan đến cơ quan nhà nước là phải có quà cáp, biếu xén thì công việc mới nhanh chóng, thông suốt, cho thấy tham nhũng vặt đã hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày được nhiều người chấp nhận như việc đương nhiên. Như vậy, từ một nét văn hóa đẹp bị chuyển hóa thành một hành vi xấu, phản văn hóa nhưng lại được chấp nhận bởi một bộ phận trong xã hội. Đây là một hiện thực nhức nhối nhưng không dễ gì xóa bỏ ngay được.

Dưới góc độ pháp lý, tham nhũng là biểu hiện của hệ thống pháp luật lỏng lẻo, thiếu đồng bộ và việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm, chưa có cơ chế đủ mạnh và hiệu quả để kiểm soát quyền lực và những nguy cơ để xảy ra tham nhũng. Nhìn lại lịch sử dân tộc cũng như lịch sử văn minh nhân loại, chúng ta đều thấy bất kỳ một nhà nước nào, ở thời kỳ nào mà pháp luật không nghiêm ắt sẽ xảy ra tham nhũng và xã hội bất ổn. Pháp luật cùng với hệ thống chính sách thiếu đồng bộ, nhiều kẽ hở trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội đã tạo những cơ hội tốt cho tham nhũng hoành hành.

Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Tham nhũng ở Việt Nam hiện nay là tham nhũng của nền kinh tế đang chuyển đổi. Cơ chế quan liêu bao cấp đã bị xóa bỏ song có thể thấy tàn dư của cơ chế xin - cho vẫn còn khá nặng nề và phổ biến, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tham nhũng.

Tham nhũng ở Việt Nam đang có sự chuyển biến mạnh mẽ theo kiểu câu kết công-tư trong hợp tác liên kết, liên doanh. Quy mô của tham nhũng cũng có sự chuyển biến lớn với hàng loạt những vụ án tham nhũng mà tài sản tham nhũng là rất lớn. Nếu  như trước đây, những vụ việc tham nhũng là những vụ việc cụ thể, đơn giản, nhỏ lẻ thì trong vài năm trở lại đây đã xuất hiện những vụ việc tham nhũng rất lớn, có sự câu kết chặt chẽ giữa người có chức vụ, quyền hạn với tư nhân nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai. Hàng loạt những vụ việc liên quan đến đất đai như dự án Phước Kiển, khu đất vàng Lê Duẩn ở thành phố Hồ Chí Minh, và mới đây là vụ việc tại Bình Thuận liên quan đến nhiều nguyên lãnh đạo của tỉnh này qua các thời kỳ.

Tham nhũng ở Việt Nam là sự kết hợp cả tham nhũng lớn với tham nhũng vặt và có mặt ở hầu khắp các ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước. Có thể thấy, ở đâu có quyền lực và còn cơ chế xin - cho thì ở đó còn tình trạng tham nhũng. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Thậm chí tham nhũng đã len lỏi vào trong cả lực lượng vũ trang, gây bức xúc lớn trong dư luận xã hội. Quy mô, mức độ tham nhũng cũng có sự khác nhau giữa các ngành, lĩnh vực. 

Tham nhũng thường đi liền với nó là tình trạng lãng phí, tiêu cực, nhất là đối với cán bộ, công chức có chức, có quyền. Hàng loạt những vụ việc tiêu cực, tham nhũng được đưa ra ánh sáng thời gian qua đã cho thấy điều này.

Nguyên nhân của tham nhũng

Sự phát triển của các hình thái nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế, chính trị tạo ra tiền đề khách quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: quyền lực công và lòng tham cá nhân. Quyền lực của nhà nước khi được trao cho những con người cụ thể, những người đại diện cho nhà nước thực thi quyền lực công, nếu không có cơ chế kiểm soát dễ dẫn tới sự lợi dụng quyền lực hoặc lạm quyền. Sự gặp nhau giữa quyền lực công khi không được chế ước với nhu cầu cá nhân vượt quá giới hạn cho phép, lòng tham, đã dẫn tới việc sử dụng quyền lực công phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Đó chính là cơ sở nảy sinh tham nhũng. Tham nhũng còn được coi là “sản phẩm của sự tha hóa quyền lực”. Tham nhũng là hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế, xã hội lỏng lẻo, yếu kém, tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Thực tế cho thấy ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, quản lý công khai, minh bạch, văn minh thì tham nhũng xảy ra ít hơn. Ngược lại, ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển, trình độ quản lý và dân trí chưa cao thì ở đó tham nhũng phức tạp hơn.

Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ hoặc thực thi pháp luật yếu kém cũng là một nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, có nhiều “kẽ hỡ” tạo điều kiện cho những người có chức vụ, quyền hạn “lách luật” trục lợi, làm giàu bất chính.

Phẩm chất chính trị đạo đức của đội ngũ có chức, có quyền bị suy thoái, đặc biệt là suy thoái tư tưởng chính trị. Họ sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung, lợi ích tập thể để trục lợi, làm giàu bất chính cho bản thân, gia đình, người thân mình.

Trình độ dân trí thấp, ý thức pháp luật của người dân chưa cao tạo điều kiện cho những người có chức quyền có thể nhũng nhiễu, hạch sách dân chúng, vòi vĩnh nhận quà biếu, tặng, hay nói cách khác là nhận hối lộ. Thực tế ở các nước phát triển có trình độ dân trí cao thì tham nhũng ít xảy ra hơn là những nước đang phát triển và kém phát triển với trình độ dân trí thấp, người dân chưa có điều kiện tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.

Bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh, với nhiều thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhà nước sách nhiễu, ăn hối lộ của người dân, doanh nghiệp. Một số nước còn tồn tại cơ chế “xin-cho”, đó là “mảnh đất màu mỡ” của tham nhũng.

Chế độ, chính sách đãi ngộ, nhất là vấn đề tiền lương cho cán bộ, công chức chưa thỏa đáng. Một khi cán bộ, công chức nhà nước chưa thể sống no ấm, đầy đủ với tiền lương của mình thì tất yếu họ sẽ tìm mọi cách để kiếm thêm thu nhập từ chính công việc, chức vụ mà nhà nước giao cho mình, kể cả tham nhũng.

Tác hại của tham nhũng

Tác hại đầu tiên của tham nhũng là làm mất đi một nguồn lực vật chất lớn cho đầu tư phát triển của xã hội do đã bị tư túi bởi một số ít những người có chức vụ, quyền hạn.

Thứ hai, tham nhũng gây bức xúc trong nhân dân, làm băng hoại giá trị văn hóa và có thể đe dọa sự ổn định, an ninh xã hội, xâm hại các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý, cản trở sự phát triển bền vững và nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Nguy hiểm hơn, tham nhũng cùng với tiêu cực đang đe dọa đến niềm tin của nhân dân ta đối với Đảng và chế độ, Đây là tác hại to lớn nhất mà tham nhũng gây ra.

Giải pháp phòng chống tham nhũng từ khía cạnh văn hóa và pháp lý

Dưới góc độ văn hóa, cần tập trung xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc như Nghị quyết Trung ương 9 Khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phát triển, bảo vệ được cái hay cái đẹp cũng đồng nghĩa với những thói hư tật xấu trong xã hội, trong đó có hành vi tham nhũng, nhất là tham nhũng vặt sẽ bị đẩy lùi. Nâng cao dân trí, ý thức tuân thủ pháp luật, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính sẽ góp phần trực tiếp khắc phục tình trạng tham nhũng vặt hiện nay.

Nâng cao văn hóa công sở, văn hóa chính trị. Văn hóa và chính trị là hai lĩnh vực đặc biệt quan trọng, có mối quan hệ mật thiết, thẩm thấu vào nhau, góp phần điều chỉnh hành vi, định hướng suy nghĩ, hành động của con người theo hướng tiến bộ, nhân văn; tạo sự ổn định, phát triển của đời sống xã hội. Văn hóa không chỉ soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi đến thành công, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến, kiến quốc; xây dựng con người mới - nhân tố quan trọng bậc nhất để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh đến một trong những phương diện quan trọng của văn hóa trong hoạt động chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng: Văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ.

Những tồn tại, hạn chế trong xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi tham nhũng, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả. Kết luận Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khóa XIII (Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chỉ rõ: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Để khắc phục những bất cập, hạn chế trên, việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, trong sạch, dân chủ, văn minh trong các cơ quan Đảng, Nhà nước với tinh thần nêu gương sáng của mỗi cán bộ, đảng viên có ý nghĩa quan trọng. Khi văn hóa thẩm thấu vào hoạt động chính trị sẽ góp phần sửa đổi được tình trạng tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, hình thành nên những mẫu hình nhân cách chính trị tốt đẹp, vì lợi ích của quốc gia dân tộc, vì hạnh phúc, ấm no của đồng bào.

Đối với Việt Nam, tham nhũng được xác định là quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Vì vậy phòng, chống tham nhũng hiệu quả là cơ sở để bảo vệ chế độ của nhân dân. Dưới góc độ pháp lý, để phòng chống tham nhũng một cách hiệu quả cần hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng theo hướng:

(1) Tiếp tục sửa đổi để quy định một cách toàn diện, bao quát, nhất là quy định cụ thể các biện pháp để bảo đảm thực hiện việc công khai, minh bạch và giải trình của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý. Cần quy định rõ các nguyên tắc, hình thức, nội dung, thời gian, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, để từ đó hạn chế sự tham nhũng.

(2) Quy định các biện pháp hữu hiệu để quản lý, xác minh các tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn theo hướng họ phải kê khai, báo cáo và giải trình về thu nhập và tài sản; cần có các cơ quan, tổ chức chuyên trách quản lý, xác minh các bản kê khai tài sản, thu nhập xem có đúng không, có trung thực, chính xác không. Đặc biệt, cần quy định một cơ chế hữu hiệu theo dõi sự biến động tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và trách nhiệm giải trình, làm rõ tài sản, thu nhập gia tăng không hợp lý, không rõ ràng, kể cả tài sản do người thân của họ nắm giữ.

(3) Hoàn thiện các quy định tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng. Theo đó, người tố cáo hành vi tham nhũng không phải chứng minh mà người bị tố cáo (là người có chức vụ, quyền hạn) có nghĩa vụ phải chứng minh nguồn gốc tài sản một cách minh bạch.

(4) Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp để tăng hiệu quả chế tài xử lý tham nhũng. Thực chất, hình sự hóa hành vi này là đảo ngược trách nhiệm chứng minh; nghĩa là trách nhiệm chứng minh tài sản có bất minh hay không được chuyển từ các cơ quan tố tụng sang người nắm giữ tài sản. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải kê khai, minh bạch và giải trình về nguồn gốc tài sản. Mọi tài sản không giải trình được nguồn gốc hợp pháp hoặc chứng minh hợp pháp thì được coi là tài sản bất minh.

(5) Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm đưa hối lộ và xây dựng chế tài thích hợp với pháp nhân.

(6) Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng.

Tham nhũng là hiện tượng của mọi kiểu nhà nước, còn nhà nước là còn tình trạng tham nhũng. Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng và mức độ tham nhũng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng: “Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng chống tham nhũng, lãng phí; cơ chế bảo vệ, khuyến khích những người làm công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý tham nhũng cũng như với người tố cáo. Tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý”. Giải quyết tốt những vấn đề về văn hóa và pháp lý sẽ góp phần căn bản để ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.I, tr.86-87.

2. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Thạc sĩ NGUYỄN VĂN HỢI

Trường Chính trị tỉnh Đắk Nông

Công bố Lệnh của Chủ tịch nước về 5 luật vừa được Quốc hội thông qua