Tới đây, TAND Khu vực 4 (tỉnh Quảng Trị) sẽ tổ chức xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hạ (sinh năm 1956), trú tại xã Phú Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (cũ) và bị đơn gồm: ông Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1977), trú tại thị trấn Kiến Giang, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (cũ) cùng chị Nguyễn Thị Thanh Hương (sinh năm 1977); bà Nguyễn Thị Đúng (sinh năm 1944), cùng trú tại đội 1, Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (cũ).
Theo nội dung vụ án, nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Hạ) cho rằng, chồng bà là ông Nguyễn Văn Du, nguyên Huyện Đội trưởng huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Năm 1998, vợ chồng bà được UBND huyện Lệ Thủy giao đất màu để làm nhà ở theo Quyết định giao đất số 89QĐ/UB ngày 16/01/1998 của UBND huyện Lệ Thủy, với diện tích 117m2, thửa đất số 210, tờ bản đồ 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy. Sau khi được cấp đất, ông Du đã thực hiện việc nộp thuế đất theo quy định. Sau đó, ông Du chuyển về công tác tại Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình và chết năm 1998. Bà Hạ không biết khi được cấp đất, ông Du đã làm các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa, vì nghĩ việc đó là của chồng. Từ khi ông Du qua đời, bản thân bà Hạ cũng thường xuyên đau ốm, phải một mình nuôi dạy con, chăm sóc mẹ chồng nên chưa có điều kiện kinh tế để làm nhà ở trên thửa đất nêu trên. Khi con đã lớn, ra ở riêng, bà Hạ có nhu cầu làm nhà thì mới biết ông Nguyễn Văn Đính, bà Nguyễn Thị Thảo lấn chiếm đất làm nhà, quán. Theo bà Hạ, năm 2008 ông Đính chết, em ruột là ông Nguyễn Văn Minh đã quản lý, sử dụng và cho người khác thuê, do đó bà Hạ yêu cầu bị đơn phải trả lại thửa đất nêu trên.
Bị đơn, ông Nguyễn Văn Minh, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, bà Nguyễn Thị Đúng cho rằng, thửa đất trên đã được UBND xã Liên Thủy cấp cho ông Nguyễn Văn Đính năm 1998. Sau khi được cấp đất, ông Đính đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xây nhà, quán ở ổn định từ đó cho đến nay, không đồng ý trả lại thửa đất trên.
Nhiều lần xét xử nhưng chưa giải quyết dứt điểm vụ việc
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS-ST ngày 23/8/2010, TAND huyện Lệ Thủy đã tuyên, lô đất có diện tích 117m2 thuộc thửa đất số 210, tờ bản đồ 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (có vị trí, kích thước: Phía Bắc giáp đường phân lô vào xóm có số đo 5,5m; Phía Nam giáp hành lang 203 đường 16 có số đo 6,5m; Phía Đông giáp đất ven Hội Đông Thành - Xuân Hồi có số đo 18m; Phía Tây giáp thửa đất 230 của ông Mai Văn Hiểu (hiện ông Nguyễn Ngọc Bảy đang sử dụng) có số đo 18m theo Quyết định về việc giao đất làm nhà ở số 89–QĐ/UB ngày 16/01/1998 của UBND huyện Lệ Thủy là tài sản thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Nguyễn Văn Du và bà Nguyễn Thị Hạ.
Ngày 30/8/2010, ông Nguyễn Văn Minh có đơn kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Theo đó, tại Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2011/DS-PT ngày 14/9/2011, TAND tỉnh Quảng Bình đã hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS-ST ngày 23/8/2010 của TAND huyện Lệ Thủy, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
Tiếp đó, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 11/9/2023, TAND huyện Lệ Thủy quyết định, không chấp nhận toàn bộ nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại diện tích diện tích 117m2, thửa số 210, tờ bản đồ 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Công nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất trên cho những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Văn Đính (chết năm 2008) là bà Nguyễn Thị Đúng (mẹ ruột ông Đính) và chị Nguyễn Thị Thanh Hương (con ruột ông Đính).
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024, TAND tỉnh Quảng Bình quyết định chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Hạ. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hạ; thửa đất có diện tích 117m2 thuộc thửa số 210, tờ bản đồ 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (có kích thước, vị trí theo Sơ đồ đo đạc hiện trạng ngày 09/5/2023 kèm theo) là tài sản thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Du và bà Nguyễn Thị Hạ theo Quyết định giao đất số 89QĐ/UB ngày 16/01/1998 của UBND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; buộc bà Hạ phải trả cho các đồng thừa kế của ông Nguyễn Văn Đính (bà Nguyễn Thị Đúng, bà Nguyễn Thị Thanh Hương) giá trị các tài sản, công trình, kiến trúc trên diện tích 117m2 thuộc thửa số 210, tờ bản đồ 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, số tiền 79.181.910 đồng.
Đến ngày 08/10/2024, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (cũ) có văn bản đề nghị kiến nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Kháng nghị mạnh mẽ của Viện Công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng
Tại Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 23/12/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng (nay là Viện Công tố và Kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng) đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình.
Theo đó, kháng nghị đã đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng (nay là TAND phúc thẩm tại Đà Nẵng) xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Tạm đình chỉ thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình cho đến khi có Quyết định giám đốc thẩm.

Quyết định Kháng nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng và Quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
Theo kháng nghị, ông Nguyễn Văn Du công tác tại Huyện đội Lệ Thủy được UBND huyện Lệ Thủy ban hành Quyết định số 89-QĐ-UB ngày 16/01/1998 cấp cho một lô đất tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ thủy, tỉnh Quảng Bình (không có số thửa, số tờ bản đồ). Việc UBND huyện Lệ Thủy cấp đất dựa trên cơ sở nhu cầu sử dụng đất của các hộ dân tại thôn Đông Thành, lúc đó ông Du ở tại xã Phú Thủy, không có hộ khẩu tại xã Liên Thủy.
Sau khi có quyết định giao đất, ông Du chuyển công tác đến Tỉnh đội Quảng Bình trong năm 1998 và chết vào cuối năm 1998 nên không thực hiện các nghĩa vụ của người sử dụng đất như: Không nộp tiền sử dụng đất, không được giao đất trên thực địa, không kê khai đăng ký sử dụng đất, không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất đối với thửa đất được cấp.
Ngày 15/12/1998, ông Nguyễn Văn Đính là người địa phương có nhu cầu sử dụng đất đã làm đơn xin cấp đất và được UBND xã Liên Thủy giao đất. Ông Đính đã nộp vào ngân sách 8.000.000 đồng. Ông Đính đã xây bờ kè sát bờ sông, làm quán trên đất, nộp thuế sử dụng đất và quản lý, sử dụng thửa đất từ năm 1999 đến khi ông Đính chết (2008) thì gia đình ông tiếp tục quản lý sử dụng đến nay.
Kháng nghị nhận định, thửa đất qua các thời kỳ có thay đổi về số thửa, số tờ bản đồ, diện tích… Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình quyết định công nhận thửa đất có diện tích 117m2 thuộc thửa số 210, tờ bản đồ 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình cho bà Nguyễn Thị Hạ là không cụ thể, rõ ràng bởi: thửa đất trên được đo vẽ vào năm 2002, sau khi có Quyết định giao đất cho ông Du năm 1998; Theo tờ bản đồ số 12 năm 1991, vị trí đất tranh chấp thuộc một phần các thửa 331, 332, 333 (đất mạ), không thể hiện có thửa 210 ở vị trí đất tranh chấp; Theo tờ bản đồ số 18 năm 2002, vị trí đất tranh chấp thuộc thửa 210, diện tích 259m2, có tứ cận: Phía Bắc giáp đường thôn, phía Nam giáp QL 9C, phía Đông giáp Hói Xuân Hồi; phía Tây giáp thửa 230 (bản đồ này được phê duyệt sau khi cấp đất năm 1998); Theo tờ bản đồ số 11 năm 2014, thửa 210 có diện tích 259m2 chỉnh lý thành thửa 302, diện tích 118,2m2 có tứ cận: Phía Bắc giáp đường thôn, phía Nam giáp QL 9C, phía Đông giáp Hói Xuân Hồi; phía Tây giáp thửa 334; một phần đất thửa 210 thuộc thửa đất 374 và một phần đất nằm trên đường xóm và QL 9C.
Theo kháng nghị, Bản án phúc thẩm xét xử năm 2024 nhưng lại sử dụng tờ bản đồ số 18 mà không sử dụng tờ bản đồ số 11 năm 2014 là không chính xác. Hơn nữa, thửa số 210, tờ bản đồ số 18 có diện tích 256m2. Việc TAND tỉnh Quảng Bình giao cho bà Hạ 117m2 có sơ đồ kèm theo bản án nhưng không xác định tọa độ, vị trí tứ cận nên không thể xác định được vị trí thửa đất.
Theo kháng nghị, thửa 210 tờ bản đồ số 18 năm 2002 diện tích 259m2, đo đạc chính lý theo tờ bản đồ số 11 năm 2014 là thửa 302, diện tích 118,2m2 phía Đông giáp với Hói Xuân Hồi, phần diện tích phía Tây còn lại nằm trong thửa 334 do ông Nguyễn Văn Bảy và bà Nguyễn Thị Thanh sử dụng, một phần đất nằm trên đường xóm và QL 9C. Theo bản trích lục bản đồ từ tờ bản đồ số 18, thửa 210, diện tích 117m2 của ông Nguyễn Văn Du có tứ cận: Cạnh phía Bắc dài 6,5m giáp đường thôn; cạnh phía Nam dài 6,5m giáp phần đất thửa 210; cạnh phía Đông dài 18m giáp phần đất thửa 210; cạnh phía Tây dài 18m giáp thửa 230. Như vậy, thửa đất 210, tờ bản đồ số 18 năm 2002 có diện tích 259m2, sau khi bản án giao cho bà Nguyễn Thị Hạ 117m2 về phía Tây của thửa 210 giáp với thửa 230 thì phần diện tích còn lại phía Đông thửa 210 của ông Nguyễn Văn Đính là 142m2, có tứ cận: Phía Bắc giáp đường thôn, phía Nam giáp QL 9C, phía Đông giáp Hói Xuân Hồi; phía Tây một phần giáp đất bà Hạ và một phần giáp thửa 230.
Theo kháng nghị, hiện gia đình của ông Nguyễn Văn Đính đang quản lý sử dụng phần đất phía Đông của thửa 210, tờ bản đồ số 18 năm 2002, giáp với Hói Xuân Hồi đã chỉnh lý thành thửa 302 tờ bản đồ số 11 năm 2014, diện tích 118,2m2 có tứ cận: Phía Bắc giáp đường thôn, phía Nam giáp QL 9C, phía Đông giáp Hói Xuân Hồi; phía Tây giáp thửa 334. Diện tích đang sử dụng là 118,2m2, nhỏ hơn phần diện tích còn lại của thửa 210 sau khi giao cho bà Hạ 117m2 lẽ ra phải còn lại 142m2. Nếu xác định theo bản trích lục bản đồ từ tờ bản đồ số 18, thửa 210, diện tích 117m2 của ông Nguyễn Văn Du thì thửa đất cấp cho ông Du đang chồng lên thửa 334 do ông Nguyễn Văn Bảy và bà Nguyễn Thị Thanh sử dụng.
Kháng nghị nhận định, Quyết định số 89/QĐ-UB của UBND huyện Lệ Thủy cấp cho ông Nguyễn Văn Du đất nhưng chưa được giao trên thực địa, gia đình ông Du chưa kê khai, đăng ký, không thực hiện các nghĩa vụ của người sử dụng đất. Qua các thời kỳ đo đạc, biến động hiện nay không xác định được cụ thể vị trí thửa đất đã cấp cho ông Du.
Do không xác định được vị trí thửa đất nhưng bản án phúc thẩm tuyên giao cho bà Hạ nên cơ quan thi hành án không thể thi hành án được và đã có thông báo đề nghị Viện Kiểm sát cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án nêu trên.
Theo kháng nghị, Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hạ là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hạ là kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn.
Sau khi có kháng nghị, ngày 28/4/2025 TAND cấp cao tại Đà Nẵng (nay là TAND phúc thẩm tại Đà Nẵng) đã ra Quyết định giám đốc thẩm số 18/2025/DS-GĐT. Theo đó, Ủy ban Thẩm phán đã chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS ngày 23/12/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 16/2024/DS-PT ngày 04/3/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình và Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Nhiều nhân chứng khẳng định ông Nguyễn Văn Du “không nộp tiền sử dụng đất”
Nguyên Chủ tịch UBND xã Liên Thủy Nguyễn Văn Đình cho biết: Ông Nguyễn Văn Du, khi còn là Huyện đội trưởng huyện Lệ Thủy, được xã đưa vào danh sách đề nghị cấp đất do quen biết, nhưng trong thời gian ông Đình giữ chức, xã không nhận được quyết định giao đất cho ông Du. Đến khi phát sinh tranh chấp mới xuất hiện bản photo quyết định.
Ông Nguyễn Văn Đình cũng khẳng định: Xã từng tạm ứng ngân sách nộp thay một số trường hợp để kịp thời hạn quyết toán, nhưng ông Du không nộp lại tiền và cũng không có quyết định cấp đất nên xã không có căn cứ giao đất. Trái lại, ông Nguyễn Văn Đính, một hộ trong danh sách, đã nộp tiền đầy đủ và sau đó được giao đất.

Thửa đất đang xảy ra tranh chấp.
Ông Nguyễn Văn Hạc, nguyên Thủ quỹ xã, xác nhận tờ biên lai bà Hạ đưa ra chỉ là bản sao, vì ông Du không nộp tiền nên không có chứng từ gốc. Sau đó, lô đất được bán lại cho ông Đính, người đã nộp đủ vào ngân sách xã.
Theo ông Nguyễn Văn Minh đại diện gia đình ông Đính, thửa đất số 210 (117m2) được cấp từ năm 1999, ông Đính đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính và sử dụng đất ổn định đến khi mất năm 2008. Gia đình tiếp tục quản lý đất và mong cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo luật định.
“Hiện nay mẹ tôi (người thừa kế theo hàng thứ nhất) đã 81 tuổi, bị tai biến, thuộc diện khuyết tật là người cao tuổi, chị gái tôi mắc bệnh tâm thần, độc thân và không tự chăm sóc được, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Tôi mong muốn cơ quan chức năng xem xét thấu đáo và bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính và sử dụng đất ổn định theo đúng quy định pháp luật”, ông Minh cho biết.
Theo hồ sơ, tại Bản án ly hôn số 24/2007/DSST ngày 27/12/2007 của Toàn án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình khi xét xử ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Thảo và ông Nguyễn Văn Đính (người được UBND xã Liên Thủy giao đất) đã xác định thửa đất số 210, tờ bản đồ số 18 tại thôn Đông Thành, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (sát Hói Xuân Hồi) là tài sản riêng của ông Đính trước hôn nhân. Theo đó, Tòa án đã giao cho ông Đính được sở hữu và sử dụng (bản án đã có hiệu lực pháp luật).

