Thanh Hóa: ‘Hậu ly hôn’ và bản án vi phạm tố tụng

20/05/2024 08:35 | 1 giây trước

(LSVN) - Ngày 06/10/2022, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Thanh Hóa có Quyết định số 03/QĐ-CCTHADS về việc thi hành án theo yêu cầu. Theo đó, “khoản phải thi hành” buộc Công ty TNHH Huy Hùng có trách nhiệm trả cho Ngân hàng VietinBank tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi (cả trong hạn, quá hạn) 11.014.508.563 đồng.

Phán quyết “hậu ly hôn” vi phạm tố tụng

Bà Nguyễn Thị Bạch Đằng sinh năm 1974, hiện ở 417 đường Quang Trung, tổ 9, phường Thịnh Đán, TP. Thái Nguyên và ông Trịnh Quốc Văn, sinh năm 1957, trú tại 62 Đinh Công Tráng, phường Ba Đình, TP. Thanh Hóa vốn là vợ chồng. Tuy nhiên, do mâu thuẫn, năm 2019 ông bà ly hôn theo Bản án số 13/2019/HNGĐ-ST ngày 16/5/2019. Tại bản án “Tranh chấp ly hôn” này, về tài sản nêu rõ do “các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa không xem xét”.

Sau ly hôn, vấn đề tài sản và hợp đồng tín dụng có tranh chấp, ngày 26/4/2021, ông Văn khởi kiện nên TAND TP. Thanh Hóa (tỉnh Thanh Hóa) đưa vụ án tranh chấp dân dự này ra xét xử và đã có Bản án số 38/2022/HNGĐ-ST. Theo bản án, Công ty TNHH Huy Hùng, địa chỉ 62 Đinh Công Tráng, phường Ba Đình, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, do ông Văn làm Giám đốc là 1 trong 4 đơn vị, cá nhân “có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”.

Sau phiên sơ thẩm, do ông Văn và bà Đằng cùng kháng cáo nên TAND tỉnh Thanh Hóa có Quyết định số 27/2022/HNGĐ-ST ngày 30/6/2022 “đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm”. Ngày 19/8/2022, ông Văn “rút toàn bộ đơn kháng cáo”, bà Đằng (bị đơn) vắng mặt (do đi Anh thăm con) nên TAND tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định số 31/2022/QĐ-PT ngày 19/8/2022 đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Về phần tài sản “hậu” ly hôn, Bản án 38/2022/HNGĐ-ST quyết định: Thửa đất số 116, tờ bản đồ số 4 (diện tích 219 m2, tại số nhà 62 Đinh Công Tráng “mang tên ông Trịnh Quốc Văn là tài sản riêng của ông Trịnh Quốc Văn được tặng cho riêng”. Ông Văn có nghĩa vụ thanh toán cho bà Đằng số tiền 724,584 triệu đồng. Công ty TNHH Huy Hùng có trách nhiệm trả cho Ngân hàng VietinBank số tiền hơn 11 tỉ đồng (làm tròn).

Bà Đằng cho biết: “Bản án số 38/2022/HNGĐ-ST và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 31/2022/QĐ-PT của TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa không phù hợp, không khách quan, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi”.

“TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa còn vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng trong việc ban hành Bản án cũng như Quyết định đình chỉ, dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi không được pháp luật bảo vệ”, bà bày tỏ quan điểm.

Hy vọng vào sự công bằng

Việc TAND TP. Thanh Hóa (sơ thẩm) áp dụng Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật số 52/2014/QH13); cho rằng thửa đất tranh chấp (62 Đinh Công Tráng, TP. Thanh Hóa) đứng tên mình ông Văn, từ đó xác định là “tài sản riêng của ông Văn” là sai sót nghiêm trọng.  

Trước hết, về tố tụng, TAND tỉnh Thanh Hóa đình chỉ xét xử phúc thẩm với lý do bà Đằng “được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vắng mặt” là không đúng quy định và thực tế. Bà Đằng, ông Văn và Công ty TNHH Huy Hùng nhận được Quyết định số 27/2022/HNGĐ-PT, ngày 30/6/2022 của TAND tỉnh Thanh Hóa, nhưng văn bản không ấn định thời gian, địa điểm xét xử phúc thẩm. \

“Tại sao theo hồ sơ lưu tại TAND tỉnh Thanh Hóa thì Quyết định số 27/2022/HNGĐ-PT ngày 30/6/2022 về việc Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm vụ án hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ lý số 24/TLPT-DS ngày 31/5/2022 lại ghi đầy đủ?”, bà Đằng nói. Thực tế, ở trang 2 Quyết định lưu có thêm 6 dòng so với Quyết định đã tống đạt cho nguyên đơn, bị đơn.

Do không được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nên ngày 18/7/2022 bà Đằng phải đi nước ngoài nên bà không biết được Quyết định hoãn phiên tòa, với lý do "Bị đơn là người có đơn kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa không có lý do lần thứ nhất"; bà Đằng cũng không biết thời gian, địa điểm mở phiên tòa lần thứ 2 vào 08h ngày 19/8/2022, do Thẩm phán Lê Thu Hương làm Chủ tọa.

Như vậy, cả hai lần xét xử bà Đằng đều không được triệu tập hợp lệ, nhưng TAND Thanh Hóa vẫn nhận định trong Quyết định của mình là "bà Nguyễn Thị Bạch Đằng được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bà Đằng vắng mặt được coi như đã từ bỏ kháng cáo" là vi phạm nghiêm trong Bộ luật Tố tụng dân sự.

Thứ hai, về nguồn gốc quyền sử dụng thửa đất có diện tích 219m2 tại số 62 Đinh Công Tráng, phường Ba Đình, TP.Thanh Hóa là của cụ Trịnh Hữu Kiều và cụ Đào Thị Nguyệt (cha mẹ ruột của ông Văn). Năm 1995, bà Đằng và ông Văn kết hôn; cụ Kiều, cụ Nguyệt đã cho vợ chồng bà quản lý, sử dụng diện tích đất này để mở cửa hàng buôn bán đồ nội thất và vật liệu xây dựng. Năm 1998, vợ chồng bà tiến hành xây dựng nhà 03 tầng phía trước; đến năm 2001, vợ chồng bà tiếp tục xây dựng phần phía sau nối với nhà phía trước để hình thành khối nhà như hiện tại.

Ngày 15/9/2002, cụ Nguyệt đã họp gia đình (thành phần dự họp gồm có cụ Nguyệt, 3 người con trai trong đó có ông Văn và 1 con gái). Gia đình cụ Nguyệt thống nhất cho nhà, đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 62 Đinh Công Tráng cho vợ chồng ông Văn, bà Đằng và 1 người con - anh trai ông Văn là Trịnh Ngọc Sơn.

Do ông Sơn không có nhu cầu sử dụng đất nên hằng năm bà Đằng và ông Văn đã thanh toán cho ông Sơn bằng tiền mặt, với số tiền là 570 triệu đồng; lần cuối cùng bà Đằng thanh toán, chuyển vào tài khoản 1.430.000.000 đồng.

Do nhu cầu kinh doanh, năm 2001, hai vợ chồng thành lập Công ty TNHH Huy Hùng và cử ông Văn làm người đại diện theo pháp luật. Ngày 30/11/2006 nhà, đất đã được thế chấp vay vốn ngân hàng. Tại các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất (gần nhất là Hợp đồng số 14108048/HĐBL ngày 17/12/2014) giữa ông Văn, bà Đằng với Ngân hàng VietinBank; ngay cả trong Đơn khởi kiện 26/4/2021, ông Văn đều xác nhận thửa đất, tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của bà và ông Văn.

Ông Văn hoàn toàn tự nguyện nhập “tài sản riêng” vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 13, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật số 22/2000/QH10). Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 46, Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật số 52/2014/QH13) là không đúng quy định. Ông Văn và bà ký hợp đồng thế chấp tài sản (Hợp đồng 14108048/HĐBL đã nói), còn Luật Hôn nhân và gia đình (Luật số 52/2014/QH13) đến ngày 01/01/2015 mới có hiệu lực.

“Nhà đất tại số 62 Đinh Công Tráng, TP. Thanh Hóa phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng tôi trong thời kỳ hôn nhân, chứ không thể là tài sản riêng của ông Văn như TAND TP.Thanh Hóa nhận định”, bà Đằng chia sẻ.

Bà Đẳng khẳng định, việc TAND TP.Thanh Hóa vội vàng xác định đất, tài sản gắn liền với đất mang tên ông Văn là tài sản riêng của ông Văn là không có căn cứ pháp luật.

Ngày 16/11/2022, bà Đằng chính thức có đơn gửi TAND Cấp cao tại Hà Nội. Bà hy vọng TAND Cấp cao sẽ xem xét giám đốc thẩm, quyền lợi của bà phải được pháp luật bảo hộ.

TỪ TÂM