Trách nhiệm giữ bí mật thông tin khách hàng của Luật sư

08/01/2023 06:00 | 1 năm trước

(LSVN) - Giữ bí mật thông tin khách hàng là trách nhiệm, nghĩa vụ của Luật sư được quy định trong Luật Luật sư và khẳng định trong Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam.

Quy tắc 7 Bộ Quy tắc quy định về giữ bí mật thông tin nêu rõ: Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. Luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và Luật sư có trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ảnh minh họa.

Đối với nghề Luật sư, một trong những đặc thù riêng là việc nắm rất rõ thông tin của khách hàng, liên quan đến vụ việc, vụ án hay những chi tiết, vấn đề mà khách hàng chỉ tiết lộ, chia sẻ với riêng Luật sư. Do đó, việc nắm được những thông tin, bí mật là lẽ thường tình. Chính vì vậy, vấn đề giữ bí mật những thông tin đó được pháp luật quy định từ rất sớm. Thông tin của khách hàng là những tin tức, thông điệp khách hàng truyền đạt (nói, viết, trao đổi, tiết lộ) cho Luật sư trong quá trình tiếp xúc, trao đổi giữa Luật sư và khách hàng hoặc do Luật sư biết được, thu thập được trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ việc của khách hàng. Đó có thể là thông tin cá nhân của khách hàng, bí mật đời tư của khách hàng, tình hình tài chính, bí mật kinh doanh của khách hàng…

Điều 25 Luật Luật sư quy định: Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tổ chức hành nghề Luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình. Đồng thời, tại Quy tắc 7, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư nêu rõ: Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và sau khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. Luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên trong tổ chức hành nghề của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và Luật sư có trách nhiệm giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Như vậy, đối với bản thân Luật sư, Luật sư phải bảo mật thông tin về khách hàng, không tiết lộ các thông tin về khách hàng. Đối với các chủ thể khác ngoài Luật sư và khách hàng, Luật sư phải hạn chế các khả năng những thông tin về khách hàng bị tiết lộ, bị xâm phạm. Đối với các Luật sư cùng hành nghề trong một tổ chức hành nghề Luật sư (Văn phòng Luật sư hoặc Công ty luật), không chỉ bản thân Luật sư tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc của khách hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các Luật sư khác trong cùng tổ chức hành nghề Luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của tổ chức mình. Việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của Luật sư không có sự giới hạn về thời gian. Khi kết thúc vụ việc, Luật sư vẫn có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng.

Đối với nghĩa vụ, trách nhiệm này, trên thực tế Luật sư rất dễ vi phạm. Có thể vô tình tiết lộ một vài thông tin trong quá trình nói chuyện, trao đổi giữa Luật sư với người khác. Hay Luật sư vô ý gõ nhầm khi chuyển email, thư điện tử trong đó có chứa thông tin khách hàng cho người khác… Thậm chí, có trường hợp Luật sư cố ý tiết lộ, cho rằng đó chỉ là chi tiết, thông tin nhỏ, không ảnh hưởng và không có khả năng ảnh hưởng đến khách hàng. Tuy nhiên, hành vi tiết lộ bí mật thông tin là vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của Luật sư, vi phạm pháp luật nên tùy tính chất, mức độ sẽ bị xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Ngoài ra, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng không phải không có ngoại lệ, đó là trường hợp tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Do đó, nếu vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng.

VĂN LINH

Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Tư vấn pháp luật Liên đoàn Luật sư Việt Nam