/ Trao đổi - Ý kiến
/ Xây dựng khung pháp lý về tài sản số - Vấn đề cấp bách nhưng cần thận trọng

Xây dựng khung pháp lý về tài sản số - Vấn đề cấp bách nhưng cần thận trọng

28/04/2025 09:54 |2 ngày trước

(LSVN) - Bài viết phân tích, đánh giá vấn đề xây dựng khung pháp lý về tài sản số, đặt trong bối cảnh thị trường tài sản số tại Việt Nam đang bùng nổ, trở thành một trong những điểm “nóng” hấp dẫn nhất trong khu vực. Trên cơ sở lập luận đa chiều, bài viết làm rõ những vấn đề cần lưu ý khi tiến tới xây dựng khung pháp lý toàn diện về tài sản số, đồng thời tham khảo quy định của một số quốc gia, khu vực tiêu biểu như Hoa Kỳ, Liên minh Châu âu (EU), Singapore. Từ đó, tác giả đưa ra gợi mở mang tính thực tiễn nhằm xây dựng khung pháp lý về tài sản số toàn diện trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số đã thúc đẩy tài sản số ra đời và nhanh chóng trở thành xu hướng bùng nổ, định hình lại bức tranh tài chính trên toàn cầu. Theo báo cáo của công ty tư vấn toàn cầu Boston Consulting Group (BCG), giá trị thị trường tài sản số toàn cầu dự kiến sẽ đạt 16.100 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) ước tính khoảng 30% [1].

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Tại Việt Nam, mặc dù tài sản số chưa được công nhận song theo Hiệp hội Blockchain Việt Nam, Việt Nam hiện có khoảng 20 triệu người đã và đang sở hữu các dạng tài sản số, đứng thứ hai thế giới về tỉ lệ người sở hữu tài sản số. Ước tính mỗi năm có khoảng 120 tỉ USD tiền mã hóa được chuyển vào Việt Nam. Trước đó, trong giai đoạn 2023 – 2024, Việt Nam đón nhận hơn 105 tỉ USD dòng vốn từ thị trường blockchain, với lợi nhuận thu về gần 1,2 tỉ USD vào năm 2023 [2]. Tuy nhiên do chưa có các cơ sở pháp lý cụ thể, toàn bộ dòng tiền này đều được giao dịch qua các công ty nước ngoài nên Việt Nam bị thất thu thuế. Bên cạnh đó, việc thiếu khung pháp lý dẫn tới nhiều rủi ro cho nhà đầu tư, bao gồm mất tài sản do các vụ lừa đảo hoặc hacker tấn công. Theo khảo sát của Hiệp hội An ninh mạng quốc gia (NCA), năm 2024, người Việt mất khoảng 18.900 tỉ đồng do lừa đảo trực tuyến. Trong đó, hình thức lừa đảo phổ biến nhất là mời gọi đầu tư, có tới 70,72% người dùng từng nhận được lời mời đầu tư tài chính vào các sàn giao dịch không rõ nguồn gốc [3].

Chính vì vậy, xây dựng khung pháp lý quản lý, thúc đẩy phát triển tài sản số, tiền kỹ thuật số lành mạnh và hiệu quả đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đề xuất, trình Chính phủ ngay trong tháng03/2025 tại Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2025 [4].

Trước đó, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên đề cập khái niệm tài sản số đã được đưa ra lấy ý kiến người dân và hiện đang được Quốc hội thảo luận. Dự thảo Luật này dự kiến sẽ được thông qua tại thông qua tại Kỳ họp thứ 9 (khai mạc đầu tháng 5 tới) sẽ là một bước tiến lớn thể hiện sự quyết tâm của Việt Nam trong việc công nhận tài sản số, tiền điện tử. Tuy nhiên, việc xây dựng khung pháp lý cho tài sản số cũng cần hết sức thận trọng bởi đây là vấn đề mới, khó và phức tạp, hiện nay trên thế giới cũng chưa có khung pháp lý quy định đầy đủ, thống nhất về vấn đề này.

Khái niệm và bản chất pháp lý của tài sản số

Trên thế giới hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về tài sản số. Theo UNIDROIT, tài sản số là “bất kỳ bản ghi điện tử nào có có khả năng chịu sự kiểm soát”, trong đó “bản ghi điện tử có nghĩa là thông tin được lưu trữ ở phương tiện điện tử và có khả năng truy xuất”, chịu sự kiểm soát là việc một người có khả năng kiểm soát tài sản số - tập hợp con của bản ghi điện tử. Nguyên tắc 6 quy định rằng một người có khả năng kiểm soát tài sản số nếu: Tùy thuộc khả năng người này thay đổi quyền kiểm soát, và chấp thuận chia sẻ quyền kiểm soát tài sản số cho người khác, người đó có khả năng độc quyền ngăn người khác thu được hầu hết lợi ích từ tài sản số, khả năng thu được hầu hết lợi ích từ tài sản số và khả năng độc quyền chuyển giao các khả năng này cho người khác. Tài sản số bao gồm tiền điện tử, token và sổ cái phân tán như blockchain [5].

Ủy ban cải cách luật pháp Vương quốc Anh cũng đưa ra khái niệm tài sản số theo nghĩa rộng, bao gồm tệp kỹ thuật số, tài khoản email, tên miền tài sản số trong trò chơi điện tử, tín chỉ carbon số, mã thông báo, NFTs. Uỷ ban này cho rằng tài sản số không phù hợp với bất kỳ phân loại tài sản truyền thống nào bởi chúng không tồn tại dưới dạng vật lý khác với tài sản hữu hình (things in possession), tài sản số cũng không phải là quyền hợp đồng nên không thể là tài sản vô hình (things in action). Để đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với sự phát triển của công nghệ, Ủy ban này đã đề xuất công nhận một loại tài sản mới là đối tượng dữ liệu (data objects). Đối tượng dữ liệu được định nghĩa dựa trên ba tiêu chí:​ i) Được cấu thành từ dữ liệu biểu diễn dưới dạng tín hiệu điện tử, bao gồm mã máy tính, tín hiệu điện tử, kỹ thuật số hoặc tương tự; ii) Tồn tại độc lập với cá nhân và hệ thống pháp lý; và iii) Có tính cạnh tranh (rivalrous), tức là nếu một người dùng tiêu thụ nó, người khác không thể tiêu thụ đồng thời [5].​

Tại Việt Nam, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số sau nhiều lần chỉnh lý đã dành chương VIII với hai điều quy định về khái niệm, phân loại và quản lý tài sản số. Theo đó, tài sản số là tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử. Tài sản số bao gồm tài sản ảo trên môi trường điện tử, tài sản mã hóa và các loại tài sản số khác. Tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo trên môi trường điện tử không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính. Tài sản mã hóa là một loại tài sản số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bằng công nghệ chuỗi khối, công nghệ sổ cái phân tán hoặc công nghệ số khác tương tự [7].

Khái niệm này của Dự thảo Luật chưa xác định được phạm vi của tài sản số, không nêu tên ít nhất một vài dạng tài sản số đặc trưng, chẳng hạn như tiền mã hóa (cryptocurrency), NFT mà mới chỉ xác định hình thức thể hiện (dữ liệu số), thuộc tính kỹ thuật (xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử) làm cho định nghĩa về tài sản số trở nên mơ hồ, khó xác định được đối tượng nào được coi là tài sản số [8].

Đối chiếu với định nghĩa tài sản tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015: “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” [9], có một số vấn đề như sau: Tài sản số không thể là vật vì chúng không tồn tại dưới dạng vật lý mà có đặc tính vô hình. Tài sản số cũng khó có thể được công nhận là tiền (mặc dù một loại tài sản số có tên gọi là “tiền ảo”) bởi chúng không phải là tiền pháp định, được ban hành bởi Nhà nước Việt Nam hoặc nhà nước nước ngoài. Giấy tờ có giá theo theo khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và những điều kiện khác [10]. Do đó cũng không thể xếp tài sản số vào nhóm này. Trong các loại tài sản được Bộ luật Dân sự 2015 liệt kê trong khái niệm quyền tài sản là phân loại gần gũi nhất với tài sản số. Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Tuy nhiên việc xếp tài sản số vào nhóm quyền tài sản bên cạnh quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất cũng chưa thực sự hợp lý bởi quy định về mua bán quyền tài sản tại Điều 450 Bộ luật Dân sự 2015 đã cho thấy sự lạc hậu của chế định này trước loại tài sản mới và phức tạp này.

Việc gượng ép đưa tài sản số vào một trong bốn nhóm tài sản được liệt kê nói trên có khả năng gây xáo trộn hệ thống luật tài sản vốn đã rất mỏng manh của Việt Nam [11]. Chính vì vậy mà một số quan điểm cho rằng không nên phân loại tài sản số theo một loại nhất định mà ưu tiên áp dụng quy chế chuyên ngành dựa trên chức năng của tài sản số. Chẳng hạn nếu tiền ảo thoả mãn định nghĩa là chứng khoán thì áp dụng quy định pháp luật về chứng khoán (giấy tờ có gía) để điều chỉnh [12].

Việc xác định bản chất pháp lý của tài sản số cũng cho thấy các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về tài sản đã bộc lộ nhiều hạn chế như cách định nghĩa khái niệm tài sản theo kiểu liệt kê như trên đã hạn chế khả năng thu nạp các loại tài sản mới trong tương lai. Chính vì vậy mà bên cạnh việc xây dựng khung pháp lý cho tài sản ảo đã đến lúc các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 cần được sửa đổi về cả triết lý và kỹ thuật lập pháp để đáp ứng sự phát triển của các quan hệ xã hội mới trong bối cảnh kỷ nguyên số như hiện nay.

Kinh nghiệm quốc tế

Hoa Kỳ: Cách tiếp cận đa cơ quan

Hoa Kỳ không có một khung pháp lý thống nhất cho tài sản số mà áp dụng cách tiếp cận phân tán giữa nhiều cơ quan quản lý:

Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC): Xác định một số loại tiền điện tử là chứng khoán và áp dụng các quy định giám sát tương tự như đối với chứng khoán truyền thống.

Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CFTC): Quản lý các tài sản số liên quan đến thị trường phái sinh, coi Bitcoin và Ethereum là hàng hóa.

Mạng lưới Thực thi Tội phạm Tài chính (FinCEN): Yêu cầu các sàn giao dịch tiền điện tử tuân thủ quy định chống rửa tiền (AML) và nhận diện khách hàng (KYC).

Cục Dự trữ Liên bang (Fed): Đang nghiên cứu tác động của tài sản số đối với hệ thống tài chính và khả năng phát triển đồng tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC).

Theo Arner, Barberis, và Buckley (2017), cấu trúc pháp lý phân mảnh này vừa đặt ra thách thức cho việc tạo ra một khung quản lý thống nhất, vừa mở đường cho sự sáng tạo trong lĩnh vực tài chính kỹ thuật số [13].

Liên minh Châu Âu (EU): Khung pháp lý MiCA

EU đã thông qua Markets in Crypto-Assets Regulation (MiCA) vào năm 2023, tạo ra một khung pháp lý toàn diện cho tài sản số.

Tài sản số được phân loại thành ba loại chính: token tham chiếu tài sản (ART), token tiền điện tử (EMT), token tiện ích và các đồng tiền mã hóa ngoài phạm vi quy định (ví dụ: Bitcoin, Ethereum).

MiCA yêu cầu nghiêm ngặt đối với việc cấp phép, giám sát các nhà cung cấp dịch vụ tài sản số. Các doanh nghiệp tham gia vào phát hành, giao dịch và lưu ký tài sản số được bắt buộc đăng ký với cơ quan quản lý quốc gia, đồng thời phải cung cấp các báo cáo minh bạch về rủi ro, công nghệ và mô hình kinh doanh.

Ngoài ra, khung pháp lý MiCA còn quy định về các biện pháp chống rửa tiền (AML) thông qua các quy tắc như quy tắc “travel rule”, yêu cầu xác minh danh tính khách hàng (KYC) và thành lập các đơn vị giám sát tài chính (FIU) – nhằm đảm bảo rằng các giao dịch bất hợp pháp được phát hiện kịp thời.

Về thuế, MiCa quy định các giao dịch tài sản số phải chịu thuế (với mức thuế suất khác nhau tùy theo từng quốc gia thành viên). Một số giao dịch liên quan đến tiền số có thể được miễn thuế VAT nếu dùng làm phương tiện thanh toán.

Singapore: Mô hình quản lý linh hoạt

Singapore đã xây dựng một khung pháp lý linh hoạt để thúc đẩy sự phát triển của tài sản số, nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn pháp lý.

Đạo luật dịch vụ thanh toán (PSA) năm 2019 là luật chính của Singapore quản lý tài sản số, cung cấp cơ chế cấp phép rõ ràng cho các nhà cung cấp dịch vụ tiền số. Tài sản số được phân loại là mã thanh toán số (DPT), bao gồm các loại tiền mã hóa như Bitcoin và Ethereum. Các nhà cung cấp ví và sàn giao dịch tiền số phải có giấy phép tổ chức thanh toán chính (MPI) hoặc giấy phép tổ chức thanh toán tiêu chuẩn, tùy thuộc vào khối lượng giao dịch của họ. Các công ty phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố (CFT), bao gồm cả nghĩa vụ nhận biết khách hàng (KYC).

Đạo luật Chứng khoán và Hợp đồng tương lai (SFA) quy định nếu một tài sản số đủ điều kiện làm token chứng khoán thì nó sẽ thuộc điều chỉnh của Đạo luật Chứng khoán và Hợp đồng tương lai và phải tuân thủ các quy định chứng khoán. Các công ty phát hành các token chứng khoán (STO) phải được MAS chấp thuận trước khi chào bán ra các tài sản số liên quan đến đầu tư.

Đạo luật Thị trường và Dịch vụ Tài chính (FSMA) năm 2022 nhằm nâng cao khả năng của Singapore trong việc giám sát các dịch vụ tài chính liên quan đến tiền số, mở rộng phạm vi quản lý của MAS tới các công ty có trụ sở bên ngoài Singapore cung cấp dịch vụ cho người Singapore.

Đối với yêu cầu về cấp phép và tuân thủ, Singapore thực thi các biện pháp tuân thủ nghiêm ngặt để duy trì sự ổn định tài chính và ngăn chặn các hoạt động bất hợp pháp trong lĩnh vực tiền mã hóa. Đối với cấp phép thì các sàn giao dịch tiền số, tổ chức lưu ký tài sản số và nhà cung cấp dịch vụ phải đăng ký với MAS và trải qua quá trình xem xét rất chặt chẽ. Đối với nghĩa vụ AML thì các công ty phải triển khai các quy trình KYC nghiêm ngặt, tiến hành đánh giá rủi ro và báo cáo các giao dịch đáng ngờ cho cơ quan quản lý. Singapore thực hiện các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng với việc yêu cầu các công ty tiền số phải cung cấp thông tin minh bạch về rủi ro liên quan đến đầu tư tài sản số.

Đối với đánh thuế tài sản số, Singapore đã áp dụng chính sách thuế khuyến khích cho tài sản số. Việc đầu tư và lợi nhuận từ tiền số không phải chịu thuế lãi vốn. Các token thanh toán số được miễn thuế dịch vụ và hàng hóa, giúp các giao dịch tiền số trở nên hiệu quả hơn về thuế.

Singapore cũng áp dụng quy định thử nghiệm có kiểm soát (sandbox). MAS thúc đẩy đổi mới thông qua các quy định sandbox, cho phép các công ty khởi nghiệp blockchain thử nghiệm các sản phẩm tài chính trong môi trường được kiểm soát trước khi được phê duyệt đầy đủ theo quy định [14].

Gợi mở cho Việt Nam

Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho tài sản số, tuy đây là nhiệm vụ cấp bách song cũng cần hết sức thận trọng.

Về khái niệm tài sản số, như đã phân tích ở trên, việc dẫn chiếu đến quy định của Bộ luật Dân sự hiện nay là chưa phù hợp và tương thích. Việt Nam có thể học hỏi khái niệm tài sản số của Unidroit để xác định phạm vi của loại tài sản phi truyền thống này. Bên cạnh đó, cần phân loại tài sản số để có cơ chế quản lý phù hợp với từng loại.

Về cơ chế quản lý, cần có quy định về đăng ký và cấp phép hoạt động cho các nền tảng, sàn giao dịch tài sản số, lập danh mục các sàn giao dịch hợp pháp để hướng dẫn nhà đầu tư. Bên cạnh đó cần xây dựng quy chế hoạt động và giám sát đối với các sàn giao dịch để đảm bảo tính minh bạch, phòng chống gian lận, rửa tiền, ngăn chặn lừa đảo, giao dịch bất hợp pháp và bảo vệ quyền lợi người dùng. Để theo dõi các giao dịch tài sản số cần nghiên cứu ứng dụng công nghệ AI và blockchain cũng như lưu trữ dữ liệu. Áp dụng các quy định chống rửa tiền (AML) và nhận diện khách hàng (KYC) đối với sàn giao dịch tài sản số để ngăn ngừa gian lận và tài trợ khủng bố.

Về thuế, cần xây dựng các quy định về thuế giá trị gia tăng đối với từng loại tài sản số, đánh thuế lợi nhuận từ giao dịch tài sản số giống như cổ phiếu và chứng khoán. Việc đặt ra mức thuế suất đối với từng loại tài sản số vừa phải đủ thấp để thu hút đầu tư trong và ngoài nước đồng thời cũng không gây ra sự mất cân bằng với các quốc gia trên thế giới và trong khu vực. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế kê khai và nộp thuế tự động qua các sàn giao dịch tài sản số tương tự như truy thu thuế của người bán qua các sàn thương mại điện tử đang được cơ quan thuế nghiên cứu áp dụng.

Áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox)

Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) được hiểu là khung pháp lý riêng để tiến hành thử nghiệm những khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới, cho phép các doanh nghiệp startup thử nghiệm các công nghệ mới, các mô hình kinh doanh mới trong môi trường thực tiễn và có giới hạn thời gian, phạm vi và đối tượng khách hàng dưới sự giám sát của nhà nước [15]. Mô hình này giúp cung cấp dữ liệu thực tiễn về rủi ro và hiệu quả của các dự án, đồng thời cho phép các cơ quan quản lý điều chỉnh khung pháp lý cho phù hợp với thực tế thị trường.

Tại Việt Nam, việc áp dụng cơ chế này đối với tài sản số không chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển của các sản phẩm tài chính số sáng tạo mà còn cung cấp cho cơ quan quản lý một kho dữ liệu quý báu giúp đánh giá rủi ro – từ đó điều chỉnh và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh tài sản số. Trong khuôn khổ của sandbox, các doanh nghiệp được phép triển khai các dự án thử nghiệm với các giới hạn về quy mô giao dịch, phạm vi hoạt động và thời gian thử nghiệm, đồng thời phải thực hiện các báo cáo định kỳ về kết quả thử nghiệm. Cơ chế này còn yêu cầu các tổ chức thử nghiệm tích hợp các biện pháp phòng ngừa rủi ro như hệ thống kiểm soát nội bộ, chính sách chính thức về nhận diện khách hàng (KYC) và biện pháp chống rửa tiền (AML).

Trong bối cảnh khung pháp lý truyền thống của Việt Nam chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ, cơ chế sandbox cho phép các startup thử nghiệm ý tưởng mới trong một không gian an toàn, giảm thiểu rủi ro trong đó có việc vi phạm các luật chồng chéo không chủ đích [16].

Cân bằng giữa quản lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo

Một trong những vấn đề quan trọng khi xây dựng khung pháp lý về tài sản số là phải đảm bảo cân bằng giữa quản lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Một môi trường pháp lý quá tự do có gây ra những rủi ro về tài chính cho người dùng và tạo điều kiện cho các giao dịch bất hợp pháp cũng như các hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố,… Ngược lại một hệ thống pháp lý quá cứng nhắc có thể kìm hãm sự phát triển của công nghệ và thị trường tiềm năng này.

Bên cạnh việc xây dựng một khung pháp lý thân thiện và áp dụng cơ chế thử nghiệm sandbox, Việt Nam cần xây dựng các quy định về ưu đãi thuế và hỗ trợ nghiên cứu, khởi nghiệp, đổi mới sáng taọ như thành lập quỹ đầu tư, các trung tâm công nghệ,…

Tài liệu tham khảo, trích dẫn

  1. Trần Quý (2024), “Kinh tế số không thể thiếu tài sản số”, https://thesaigontimes.vn/kinh-te-so-khong-the-thieu-tai-san-so/
  2. Vũ Lê Minh (2025), “Xây dựng khung pháp lý tài sản số: Những chế định cốt lõi, kinh nghiệm các nước và gợi mở cho Việt Nam”, https://phaply.net.vn/xay-dung-khung-phap-ly-tai-san-so-nhung-che-dinh-cot-loi-kinh-nghiem-cac-nuoc-va-goi-mo-cho-viet-nam-a259198.html.
  3. Hiệp hội An ninh mạng quốc gia (2024), “Báo cáo tổng kết An ninh mạng năm 2024 (khu vực người dùng cá nhân)”, https://www.nca.org.vn/news/detail/bao-cao-tong-ket-an-ninh-mang-nam-2024-khu-vuc-nguoi-dung-ca-nhan?l=vi, truy cập ngày 10/04/2025.
  4. Chỉ thị 05/CT-TTg ngày 01/03/2025 của Thủ tướng Chính Phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
  5. UNIDROIT (2023), Unidroit Principles on Digital Assets and Private Law, tr. 11, 51.
  6. Law Commission (2023), Digital assets: Final report, tr. 1, 23.
  7. Dự thảo 5.8.
  8. Lê Quang Vinh (2024), Bàn về định nghĩa “tài sản số” ở Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 20(499), tr. 15-21.
  9. Bộ luật Dân sự năm 2015.
  10. Thông tư số 01/2012/TT-NHNN ngày 16/02/2012 của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
  11. Huỳnh Thiên Tứ (2024), “Luật tài sản trước thử thách số hoá”,
  12. Đỗ Giang Nam, Đào Trọng Khôi, “Bàn thêm về bản chất pháp lý của “tiền ảo” dưới góc nhìn của luật tài sản so sánh”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN – Luật học, 37(4), tr. 68-80.
  13. Arner, D. W., Barberis, J., & Buckley, R. P. (2017), Fintech and regtech: Impact on regulators and banks, Journal of Banking Regulation, 19(4), 1–16.
  14. Đặng Tài An Trang (2025), Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài sản số,
  15. Trần Đắc Hiến, Trần Thị Thu Hà, Trần Mạnh Quân, Nguyễn Lê Hằng, Phùng Anh Tiến (2021), Regulatory Sandbox: Áp dụng cơ chế thử nghiệm ở một số nền kinh tế trên thế giới hiện nay và hàm ý chính sách cho Việt Nam Tổng luận Khoa học công nghệ kinh tế, số 6.
  16. Thế Anh (2025), Khung pháp lý rõ ràng sẽ giúp Việt Nam phát triển thị trường tài sản số,

NGUYỄN LINH CHI

Ban Pháp chế - Công ty TNHH Quản lý đầu tư và Khai thác tài sản VICIN

Các tin khác