1. Mở đầu
Kỷ niệm 95 năm Ngày truyền thống MTTQVN (18/11/1930 - 18/11/2025) không chỉ là dịp ôn lại hành trình lịch sử vẻ vang của một tổ chức chính trị - xã hội đặc thù, mà còn là thời điểm để nhận diện sâu sắc hơn vai trò hạt nhân của Mặt trận trong việc kiến tạo, duy trì và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nguồn sức mạnh nội sinh bất diệt của cách mạng Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930 diễn ra ở Hương Cảng (Trung Quốc), dưới sự chủ trì trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã thông qua Luận cương Chính trị và quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương - tổ chức liên minh chính trị đầu tiên mang tính chất mặt trận rộng rãi, đặt nền móng cho hệ thống MTTQVN sau này [1]. Đây là bước ngoặt chiến lược, đánh dấu sự chuyển biến từ đấu tranh giai cấp thuần túy sang liên minh dân tộc rộng rãi, phù hợp với điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Qua 95 năm hình thành và phát triển, Mặt trận đã trải qua nhiều tên gọi và hình thức tổ chức khác nhau: từ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1930), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận Dân tộc Thống nhất (1955), Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), đến MTTQVN thống nhất sau ngày đất nước hòa bình (1976). Dù biến đổi về tên gọi và cơ cấu, Mặt trận luôn giữ vững bản chất cốt lõi: là khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một liên minh chính trị tự nguyện, rộng rãi, đa thành phần, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung của dân tộc [2].

Ảnh minh họa. Nguồn: mattran.org.vn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc được khẳng định như một nguyên tắc chiến lược cách mạng, không phải là chiến thuật nhất thời. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” [3]. Đây không chỉ là khẩu hiệu mà là kim chỉ nam lý luận và thực tiễn, được Đảng ta vận dụng sáng tạo qua các thời kỳ lịch sử. Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, xây dựng CNXH và hội nhập quốc tế sâu rộng - việc củng cố và nâng cao vai trò của MTTQVN trở thành nhiệm vụ chiến lược có tính sống còn. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [4]. Việc xây dựng Mặt trận vững mạnh chính là góp phần thực hiện mục tiêu tổng quát: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - mục tiêu đã được Hiến pháp 2013 và các văn kiện Đảng khẳng định là định hướng phát triển bền vững của quốc gia.
Việc nghiên cứu chủ đề “Xây dựng MTTQVN vững mạnh - Hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới” mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Trước hết, về lý luận, cần làm rõ bản chất của Mặt trận như một hình thái tổ chức đặc thù của khối đại đoàn kết, khác biệt với đảng phái chính trị (không nắm chính quyền), khác biệt với đoàn thể quần chúng (không thay thế vai trò giai cấp), nhưng lại là cầu nối sống còn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thứ hai, về thực tiễn, 95 năm lịch sử đã chứng minh Mặt trận là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam ở mọi giai đoạn: từ khởi nghĩa giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đến công cuộc đổi mới, hội nhập. Thứ ba, trong bối cảnh mới, với sự xuất hiện của các thách thức mang tính toàn cầu hóa (phân hóa giàu nghèo, tác động của mạng xã hội, biến đổi dân số, cạnh tranh quốc tế...), Mặt trận phải được xây dựng như một hệ thống chính trị - xã hội hiện đại, linh hoạt, hiệu quả, đủ sức tập hợp, vận động và phản biện để bảo vệ lợi ích dân tộc và khối đoàn kết.
Bài viết đặt ra ba câu hỏi nghiên cứu định hướng: (1) Mặt trận Tổ quốc có bản chất gì trong khối đại đoàn kết - liên minh chính trị tự nguyện hay công cụ lãnh đạo gián tiếp của Đảng, khối dân tộc hay liên minh giai cấp mở rộng - để xác định vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị? (2) Thực tiễn 95 năm (1930 - 1945, 1945 - 1975, 1975 - 2025) mang lại bài học nào về cơ chế tập hợp, vận động và quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân? (3) Giải pháp nào ở năm cấp độ - tư tưởng, tổ chức, chính sách, công nghệ, quốc tế - để Mặt trận trở thành hạt nhân đoàn kết trong thời kỳ mới? Trả lời các câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ lý luận đại đoàn kết trong chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho đổi mới hoạt động Mặt trận giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn 2045 [5].
2. Cơ sở lý luận về Mặt trận Tổ quốc và khối đại đoàn kết
Cơ sở lý luận của MTTQVN và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là hệ thống lý luận khoa học, biện chứng, mang tính kế thừa và phát triển, phản ánh bản chất của một liên minh chính trị - xã hội đặc thù trong điều kiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Phân tích lý luận này không chỉ dừng ở khái niệm mà phải làm rõ bản thể luận (ontological essence), chức năng luận (functional roles) và phương pháp luận (methodological principles) của khối đại đoàn kết và hình thái tổ chức của nó - Mặt trận Tổ quốc.
2.1. Khái niệm đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguyên tắc chiến lược cách mạng, không phải chiến thuật tình thế, được Hồ Chí Minh nâng lên triết lý chính trị - xã hội: “Đoàn kết là truyền thống quý báu... vì sao sáng nhất trong bầu trời cách mạng” [6], xây dựng trên ba trụ cột: nền tảng giai cấp - dân tộc với lợi ích dân tộc trên hết, liên minh công - nông - trí thức làm hạt nhân, mở rộng đến tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước, tôn giáo, dân tộc thiểu số, kiều bào - vận dụng sáng tạo Mác - Lênin vào nước nông nghiệp lạc hậu, đa dân tộc, đa tôn giáo [7]; tính tự nguyện và rộng rãi dựa trên lợi ích thiết thực, nhận thức tự giác, nguyên tắc hiệp thương dân chủ, khác liên minh phương Tây hay Liên Xô [8]; sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thống nhất qua đường lối, vận động quần chúng, gương mẫu đảng viên, không trực tiếp thay thế [9]; vậy, đại đoàn kết là khối liên minh chính trị - xã hội rộng rãi, tự nguyện, có lãnh đạo, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, đóng góp độc đáo của Hồ Chí Minh vào Mác - Lênin, UNESCO công nhận “tư tưởng đoàn kết vĩ đại thế kỷ XX” (Nghị quyết 1990) [10].
2.2. Mặt trận Tổ quốc - hình thái tổ chức của đại đoàn kết
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thái tổ chức cụ thể, sống động và duy nhất của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phải đảng phái, không nắm chính quyền, không thay thế đoàn thể quần chúng, mà là liên minh chính trị tự nguyện, rộng rãi, linh hoạt, hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ và đồng thuận xã hội [11]. Mặt trận không có cương lĩnh riêng, không tranh cử chính quyền, không thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; không ban hành pháp luật, không quản lý hành chính, chỉ đề xuất, phản biện, giám sát; các tổ chức thành viên như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh đại diện giai tầng, còn Mặt trận là nơi hiệp thương chung. Theo Điều lệ MTTQVN (sửa đổi 2019), Mặt trận có ba chức năng chiến lược [12]: vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trên mọi lĩnh vực; thực hiện dân chủ XHCN qua lấy ý kiến, giám sát, phản biện, bảo vệ quyền lợi nhân dân; đại diện quyền làm chủ, làm cầu nối Đảng - Nhà nước - nhân dân, tham gia xây dựng chính sách. Nguyên tắc hoạt động là hiệp thương dân chủ - quyết định qua thảo luận, thống nhất ý chí, không biểu quyết đa số áp đảo thiểu số - và đồng thuận xã hội, tìm điểm tương đồng lợi ích, hóa giải mâu thuẫn bằng đối thoại, không cưỡng chế. Nghị quyết Đại hội XIII (2021) xác định: “MTTQVN là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài” [13], khẳng định Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền và diễn đàn dân chủ rộng lớn nhất, cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh: “Mặt trận là nhà chung của toàn dân” [14]. Từ góc độ chính trị học hệ thống (David Easton), Mặt trận là hệ thống đầu vào của hệ thống chính trị Việt Nam [15]: tiếp nhận ý kiến, nguyện vọng, phản biện từ nhân dân; hiệp thương, tổng hợp, đề xuất; góp phần hình thành đường lối, chính sách, đảm bảo phản hồi và thích ứng trước biến động xã hội. Cơ sở lý luận này kết tinh từ chủ nghĩa Mác - Lênin (liên minh giai cấp), tư tưởng Hồ Chí Minh (đoàn kết dân tộc) và thực tiễn cách mạng Việt Nam (đổi mới, sáng tạo), là kim chỉ nam cho hoạt động Mặt trận, đồng thời là cơ sở khoa học đánh giá 95 năm thực tiễn và đề xuất giải pháp xây dựng Mặt trận vững mạnh - yếu tố sống còn để Việt Nam trở thành nước phát triển cao vào năm 2045.
3. Thực tiễn 95 năm xây dựng Mặt trận - Khối đại đoàn kết
Phân tích thực tiễn 95 năm (1930 - 2025) là quá trình đánh giá biện chứng lịch sử - chính trị, làm rõ sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của MTTQVN như hình thái tổ chức sống động của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không chỉ phản ánh thành tựu lịch sử mà còn rút ra bài học chiến lược cho việc xây dựng Mặt trận vững mạnh trong thời kỳ mới, chia thành ba giai đoạn lớn gắn với tên gọi, chức năng, bối cảnh cụ thể, thể hiện sự liên tục và đổi mới của tư tưởng đại đoàn kết.
3.1. Giai đoạn 1930 - 1945: Khởi nguồn từ Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Mặt trận Việt Minh - Xây dựng nền tảng đoàn kết dân tộc chống thực dân, phong kiến
Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời và hình thành bản chất của Mặt trận trong bối cảnh thuộc địa nửa phong kiến bị ba tầng áp bức, tại Hội nghị Trung ương tháng 10/1930 ở Hương Cảng dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đảng thông qua Luận cương chính trị và thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương - tổ chức liên minh phản đế rộng rãi [16], bước ngoặt từ đấu tranh giai cấp sang liên minh dân tộc dân chủ; đến năm 1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp trên 80% dân số tham gia tuyên truyền, vũ trang, xây dựng căn cứ địa [17], lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám 1945 chỉ trong 15 ngày với sự tham gia của hàng triệu quần chúng từ mọi tầng lớp, bài học then chốt là đoàn kết phải dựa trên lợi ích thiết thực - nông dân chia ruộng, công nhân tăng lương, trí thức trọng dụng, tôn giáo tự do tín ngưỡng - gắn kết lợi ích giai tầng với dân tộc.
3.2. Giai đoạn 1945 - 1975: Từ Mặt trận Dân tộc Thống nhất đến Mặt trận Giải phóng miền Nam - Đoàn kết toàn dân tộc trong kháng chiến chống ngoại xâm
Sau Cách mạng Tháng Tám, để đáp ứng kháng chiến toàn dân, năm 1951 Mặt trận Liên Việt kế thừa Mặt trận Việt Minh, năm 1955 MTTQVN thành lập ở miền Bắc và Mặt trận Giải phóng miền Nam (20/12/1960) làm chính quyền lâm thời ở miền Nam, xây dựng liên minh công - nông - trí thức - tôn giáo sâu rộng nhất lịch sử, hơn 20 triệu người (trên 35 triệu dân) tham gia bộ đội, dân quân, hậu cần, ngoại giao nhân dân [18], với thành tựu Điện Biên Phủ 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, bài học là đoàn kết chống ngoại xâm là động lực mạnh nhất, tạm gác mâu thuẫn nội bộ, biến quần chúng thành quân đội cách mạng, hậu phương vững chắc.
3.3. Giai đoạn 1975 - 2025: MTTQVN thống nhất - Đoàn kết trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế
Sau thống nhất đất nước (30/4/1975), MTTQVN thành lập thống nhất tại Đại hội 31/1 - 4/2/1977, chuyển từ đoàn kết cách mạng sang xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập, mở rộng đoàn kết kiều bào 5,3 triệu người tại 130 quốc gia đóng góp hơn 20 tỷ USD kiều hối/năm [19], giám sát hàng nghìn dự án lớn, phản biện hàng trăm chính sách, Quỹ “Vì người nghèo” huy động hơn 70 nghìn tỷ đồng xây 1,2 triệu căn nhà đại đoàn kết [20], bài học là đoàn kết phải gắn phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, giải quyết mâu thuẫn giàu nghèo, vùng miền, tôn giáo, thế hệ, phản ánh đúng nguyện vọng, đổi mới từ tuyên truyền miệng đến công nghệ số.
Thực tiễn 95 năm khẳng định quy luật biện chứng: Mặt trận chỉ mạnh khi gắn bó máu thịt với nhân dân như ngôi nhà chung lắng nghe mọi tiếng nói, đi trước nắm bắt tâm tư, dự báo mâu thuẫn, đổi mới phù hợp từng giai đoạn mà không đánh mất bản sắc; ba giai đoạn là ba bậc thang phát triển - khởi nghĩa giành chính quyền, kháng chiến bảo vệ độc lập, xây dựng hội nhập - chứng minh Mặt trận là hạt nhân, linh hồn, sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam [21].
4. Thách thức đối với khối đại đoàn kết trong thời kỳ mới
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc - với MTTQVN làm hạt nhân - đối mặt với những thách thức đa chiều, mang tính hệ thống và toàn cầu hóa, xuất phát từ mâu thuẫn nội tại xã hội chuyển tiếp, tác động của cách mạng công nghệ 4.0, biến đổi khí hậu và cạnh tranh địa chính trị, phân tích theo lăng kính biện chứng lịch sử nơi phát triển kinh tế sinh ra mâu thuẫn xã hội, đòi hỏi Mặt trận đóng vai trò cầu nối, hóa giải và định hướng để duy trì thống nhất dân tộc, tập trung vào bốn nhóm thách thức chính dựa trên dữ liệu thực tiễn và lý luận chính trị, nhằm làm rõ tác động đến bản chất đại đoàn kết - sự tập hợp tự nguyện, rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4.1. Phân hóa xã hội
Phân hóa xã hội là mâu thuẫn cốt lõi của giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nơi tăng trưởng kinh tế cao (GDP bình quân đầu người đạt 4.300 USD năm 2024) làm sâu sắc thêm khoảng cách lợi ích giữa các giai tầng, đe dọa tính rộng rãi và tự nguyện của khối đại đoàn kết [22]; theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết phải dựa trên công bằng xã hội chủ nghĩa, nhưng thực tiễn tạo ra lớp người bị loại trừ, suy yếu vai trò Mặt trận trong vận động quần chúng; chênh lệch giàu nghèo thể hiện qua hệ số Gini, theo Tổng cục Thống kê giảm từ 0,431 năm 2016 xuống 0,373 năm 2020 nhờ an sinh xã hội, nhưng ổn định ở mức 0,374 năm 2023 - vẫn trung bình, phản ánh phân hóa kéo dài do đô thị hóa và toàn cầu hóa [23]; khoảng cách thu nhập giữa 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất thu hẹp từ 9,3 lần (2012) xuống 8,07 lần (2020), nhưng lạm phát, suy thoái hậu COVID-19 và tăng trưởng không đồng đều gia tăng mâu thuẫn nội bộ giai cấp công nhân và nông dân - nền tảng liên minh công - nông [24]; ví dụ, thu nhập bình quân đầu người ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ 3,5 triệu đồng/tháng (2024) so với 7,2 triệu đồng ở Đông Nam Bộ, dẫn đến di cư nội địa ồ ạt và xung đột đất đai, suy yếu tổ chức đoàn thể cơ sở của Mặt trận; khoảng cách đô thị - nông thôn, vùng sâu vùng xa trầm trọng hóa vấn đề, năm 2024 tỷ lệ đô thị hóa đạt 44,3%, nhưng 55,7% dân số nông thôn đối mặt nghèo đa chiều (thiếu nước sạch, giáo dục, y tế), vùng sâu vùng xa (Tây Nguyên, Tây Bắc) có tỷ lệ hộ nghèo lên đến 25% - cao gấp đôi trung bình quốc gia [25]; điều này phai nhạt bản sắc dân tộc thiểu số (chiếm 14,7% dân số), tạo dư luận chia rẽ trên mạng xã hội, thách thức nguyên tắc hiệp thương dân chủ của Mặt trận; nếu không hóa giải, phân hóa sẽ biến đại đoàn kết từ sức mạnh nội sinh thành mâu thuẫn nội tại, đòi hỏi Mặt trận tăng cường phản biện xã hội để đề xuất chính sách phân phối lại như tăng thuế tiến bộ, đầu tư hạ tầng vùng sâu.
4.2. Tác động của mạng xã hội
Cách mạng công nghệ 4.0 biến mạng xã hội thành không gian chính trị - xã hội mới, nơi thông tin lan tỏa nhanh nhưng dễ thao túng, đe dọa thống nhất ý chí của khối đại đoàn kết; mạng xã hội là công cụ kép - mở rộng diễn đàn dân chủ nhưng cũng là vũ khí của thế lực thù địch kích động chia rẽ, như Hồ Chí Minh cảnh báo về “đầu độc tinh thần” của kẻ thù [26]; thực tiễn, Việt Nam có 78,44 triệu người dùng Internet (tháng 1/2024), chiếm 79,1% dân số, với 72,7 triệu tài khoản mạng xã hội hoạt động - tương đương 73,3% dân số [27]; sự bùng nổ này (tăng 502.000 người dùng so với 2023) tạo thông tin sai lệch, kích động chia rẽ qua vụ “đường lưỡi bò” (2019 - 2024, hàng nghìn bài đăng chống phá chủ quyền Biển Đông) và “vắc-xin COVID-19” (2021 - 2023, lan truyền thuyết âm mưu gây hoang mang, chậm tiêm chủng địa phương) [28]; nền tảng như Facebook, TikTok (50 triệu người dùng) thành chiến trường tư tưởng, thông tin giả mạo đạt tỷ lệ 30% theo Bộ Thông tin và Truyền thông (2024), suy yếu lòng tin vào Đảng và Mặt trận; đặc biệt, thanh niên (18-35 tuổi) - chiếm 35% dân số, hạt nhân tương lai đại đoàn kết - dễ ảnh hưởng bởi thông tin cực đoan, khảo sát Viện Nghiên cứu Thanh niên (2024) cho thấy 45% tiếp cận thông tin chính trị qua mạng xã hội, 20% thừa nhận bị ảnh hưởng nội dung chống phá (dân túy, cực hữu); điều này phai nhạt tư tưởng Hồ Chí Minh, thách thức vai trò Đoàn Thanh niên trong Mặt trận, đòi hỏi xây dựng Mặt trận số để đối thoại trực tuyến, giám sát và định hướng dư luận.
4.3. Biến đổi cơ cấu dân cư
Biến đổi cơ cấu dân cư là thách thức nhân khẩu học dài hạn, thay đổi cấu trúc xã hội, đòi hỏi Mặt trận điều chỉnh phương thức vận động từ truyền thống sang hiện đại phù hợp xã hội già hóa và di cư hóa; theo lý luận Mác - Lênin, dân số là yếu tố sản xuất xã hội, nhưng biến đổi này có thể suy yếu liên minh giai cấp nếu không quản lý; thứ nhất, già hóa dân số diễn ra nhanh nhất châu Á: năm 2025, tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên đạt 9,3% (khoảng 9,5 triệu người), tăng từ 7% năm 2011, dự báo đạt 16% vào 2036 theo Cục Dân số [29]; Việt Nam mất 17-20 năm chuyển từ già hóa sang dân số già (dự kiến 2036), ngắn hơn nhiều nước, dẫn đến gánh nặng an sinh xã hội (28.000 tỷ đồng ngân sách/năm cho bảo hiểm y tế người cao tuổi) và thiếu hụt lao động trẻ [30]; người cao tuổi thường mang 3-4 bệnh mạn tính, đòi hỏi Mặt trận tăng cường vai trò Hội Người cao tuổi trong giám sát y tế cơ sở, nhưng sự cô lập xã hội (đặc biệt nông thôn) giảm gắn kết cộng đồng; thứ hai, di cư lao động quốc tế đạt kỷ lục: năm 2024, 158.588 lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài (126,9% kế hoạch), chủ yếu sang Nhật Bản (71.518 người), Đài Loan (62.282 người) và Hàn Quốc (13.649 người) [31]; tổng cộng hơn 700.000 lao động đang làm việc ở 40 quốc gia, gửi về 3,5-4 tỷ USD kiều hối/năm, nhưng gây “chảy máu chất xám” và tan rã gia đình, suy yếu tổ chức đoàn thể cơ sở [32]; di cư nội địa (khoảng 2 triệu người/năm) từ nông thôn ra thành thị tạo xung đột văn hóa, thách thức Mặt trận duy trì đoàn kết kiều bào và dân tộc thiểu số.
4.4. Yêu cầu hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược của Đảng, nhưng mang lại cạnh tranh lợi ích và xâm lăng văn hóa, đe dọa bản sắc dân tộc - nền tảng tinh thần đại đoàn kết; Nghị quyết Đại hội XIII nhấn mạnh hội nhập phải giữ vững độc lập, tự chủ, nhưng thực tiễn cho thấy thách thức lớn từ toàn cầu hóa không kiểm soát [33]; cụ thể, cạnh tranh lợi ích trong hiệp định FTA (CPTPP, EVFTA, RCEP) gia tăng bất bình đẳng: doanh nghiệp nhỏ (chiếm 98% tổng số) khó cạnh tranh hàng nhập khẩu, dẫn đến phá sản 20.000 doanh nghiệp/năm (2024), ảnh hưởng việc làm của 5 triệu lao động [34]; điều này tạo mâu thuẫn giữa lợi ích dân tộc và toàn cầu, nơi Mặt trận phải phản biện bảo vệ người lao động, nhưng thiếu đồng bộ chính sách giảm lòng tin doanh nhân và kiều bào; nguy cơ “tẩy não” văn hóa, phai nhạt bản sắc dân tộc qua lan tỏa văn hóa phương Tây (Hollywood, K-pop) trên mạng xã hội, với 60% thanh niên tiếp cận nội dung ngoại (2024) [35]; kiều hối đạt 16 tỷ USD năm 2024 (tăng ổn định từ châu Á và Bắc Mỹ) là nguồn lực, nhưng mang giá trị ngoại lai, suy yếu tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ văn hóa dân tộc [36]; thách thức này đòi hỏi Mặt trận xây dựng đoàn kết quốc tế với tổ chức tiến bộ, tăng cường giáo dục bản sắc chống “diễn biến hòa bình”.
Các thách thức trên không phải tai ương bất khả kháng mà là mâu thuẫn biện chứng của phát triển, đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc đổi mới sáng tạo để biến thách thức thành động lực củng cố đại đoàn kết; từ phân hóa xã hội đến hội nhập quốc tế, tất cả nhấn mạnh Mặt trận phải là hạt nhân chủ động, linh hoạt, gắn bó với nhân dân để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
5. Giải pháp xây dựng Mặt trận vững mạnh - Khối đại đoàn kết bền vững
Từ cơ sở lý luận được củng cố bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng, kết hợp với thực tiễn 95 năm đầy sống động cùng bốn nhóm thách thức đã phân tích, việc xây dựng MTTQVN vững mạnh để trở thành hạt nhân thực sự của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đòi hỏi một hệ thống giải pháp đồng bộ, mang tính chiến lược, khoa học và khả thi cao, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vào năm 2045. Hệ thống này được triển khai theo năm nhóm biện chứng - tư tưởng, tổ chức, chính sách, công nghệ, quốc tế - trong đó tư tưởng làm định hướng, tổ chức làm nền tảng, chính sách làm bảo đảm, công nghệ làm công cụ, quốc tế làm không gian mở rộng, tất cả cùng hướng tới việc biến đại đoàn kết từ truyền thống lịch sử thành sức mạnh nội sinh hiện đại, toàn diện và toàn cầu [37].
5.1. Nhóm giải pháp tư tưởng: Củng cố nền tảng nhận thức và niềm tin xã hội
Tư tưởng là linh hồn của đại đoàn kết, như Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng muốn đoàn kết thì trước hết phải tuyên truyền, giáo dục để biến nhận thức thành hành động tự giác [38]. Trong bối cảnh thời đại số và hội nhập, giải pháp tư tưởng không thể dừng lại ở tuyên truyền truyền thống mà phải đổi mới sâu sắc về nội dung và hình thức, hướng tới việc thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết vào mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, doanh nhân và kiều bào. Trước hết, cần tuyên truyền sâu rộng tư tưởng này thông qua chương trình giáo dục công dân từ cấp trung học cơ sở, đưa chuyên đề “Đại đoàn kết toàn dân tộc - Sức mạnh Việt Nam” vào chương trình chính khóa với ít nhất mười lăm tiết học mỗi năm, sử dụng tài liệu số, video hoạt hình và câu chuyện lịch sử về Cách mạng Tháng Tám hay chiến thắng Điện Biên Phủ, nhằm giúp học sinh nắm vững ba nguyên tắc cốt lõi là lợi ích dân tộc trên hết, tính tự nguyện và hiệp thương dân chủ; đến năm 2030, chuyên đề này sẽ được tích hợp đầy đủ vào Chương trình giáo dục phổ thông 2018 với cơ chế đánh giá định kỳ qua kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở [39]. Đồng thời, nội dung vận động phải được đổi mới phù hợp từng nhóm đối tượng: với giới trẻ từ mười tám đến ba mươi lăm tuổi, phát động Chiến dịch “Đại đoàn kết 4.0” trên các nền tảng TikTok, YouTube và Zalo với hashtag #DoanKetVietNam, kết hợp tổ chức gameshow truyền hình thực tế “Đại đoàn kết - Sức mạnh tương lai” phát sóng trên VTV và hợp tác với Đoàn Thanh niên, hướng tới năm mươi triệu lượt tương tác mỗi năm và một triệu thanh niên tham gia tình nguyện cơ sở; với doanh nhân, tổ chức Diễn đàn Doanh nhân vì Đại đoàn kết hàng năm tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, quy tụ năm trăm CEO lớn để ký cam kết “Doanh nghiệp vì cộng đồng” với mức đóng góp một phần trăm lợi nhuận cho Quỹ Vì người nghèo; với kiều bào, xây dựng Cổng thông tin điện tử Mặt trận - Kiều bào (mtkq.vn/kieubao) đa ngữ gồm tiếng Việt, Anh, Pháp, Trung, kết nối năm triệu ba trăm nghìn người Việt ở nước ngoài thông qua webinar định kỳ về chính sách đầu tư và bảo hộ công dân, nhằm tăng kiều hối đóng góp xã hội hóa lên năm tỷ đô la Mỹ mỗi năm vào năm 2030.
5.2. Nhóm giải pháp tổ chức: Kiện toàn bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động
Tổ chức là xương sống của Mặt trận, và theo Điều lệ MTTQVN sửa đổi năm 2019, bộ máy phải tinh gọn, dân chủ, gần dân để thực sự trở thành ngôi nhà chung của toàn dân [40]. Giải pháp tổ chức tập trung vào việc trẻ hóa, số hóa và tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội, từ đó nâng cao hiệu quả vận động và tập hợp quần chúng. Cụ thể, cần kiện toàn bộ máy Mặt trận từ trung ương đến cơ sở bằng cách tăng tỷ lệ đại biểu trẻ dưới bốn mươi tuổi trong Ủy ban Mặt trận các cấp lên ba mươi phần trăm - mức hiện chỉ khoảng mười hai đến mười lăm phần trăm - thông qua cơ chế bầu cử dân chủ mở tại Đại hội Mặt trận các cấp giai đoạn 2026 - 2031, ưu tiên ứng viên có kinh nghiệm khởi nghiệp, công nghệ và hoạt động xã hội; đồng thời thành lập Ban Công tác Mặt trận số tại sáu mươi ba Ủy ban Mặt trận tỉnh/thành và toàn bộ quận/huyện đô thị loại I, II với năm đến bảy thành viên chuyên trách quản trị nền tảng số, phân tích dữ liệu dư luận và phản biện trực tuyến. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội bằng cách tổ chức ít nhất hai diễn đàn phản biện mỗi năm về các dự án lớn như cao tốc Bắc - Nam, cảng Liên Chiểu hay sân bay Long Thành, với sự tham gia của đại diện nhân dân, chuyên gia và doanh nghiệp, đảm bảo kết quả phản biện được gửi trực tiếp Thủ tướng Chính phủ và công khai trên cổng thông tin Mặt trận; song song đó, xây dựng Hệ thống giám sát cộng đồng tại mười một nghìn xã/phường thông qua ứng dụng di động cho phép người dân báo cáo vi phạm về ô nhiễm hay tham nhũng, với mục tiêu xử lý tám mươi phần trăm phản ánh trong vòng bảy mươi hai giờ.
5.3. Nhóm giải pháp chính sách: Hoàn thiện cơ chế, tăng nguồn lực
Chính sách là đòn bẩy pháp lý để Mặt trận hoạt động hiệu quả, và dù Luật MTTQVN số 75/2015/QH13 (sửa đổi, bổ sung năm 2025 theo Luật số 97/2025/QH15) đã cụ thể hóa vị trí, chức năng giám sát, phản biện xã hội, vẫn cần những bước đột phá thể chế để đáp ứng yêu cầu dân chủ và hội nhập [41]. Trước hết, cần hoàn thiện cơ chế phối hợp bốn nhà gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và Nhân dân bằng cách ban hành Nghị định quy định chi tiết cơ chế phối hợp giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân thay thế Nghị quyết liên tịch số 01/2023/NQLT-CP-ĐCTUBTƯMTTQVN ngày 14/11/2023 về công tác phối hợp giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN, trong đó Mặt trận tham gia ý kiến bắt buộc trước khi Chính phủ ban hành chính sách lớn về đất đai, lao động, y tế, đồng thời thành lập Hội đồng Hiệp thương Quốc gia do Chủ tịch Mặt trận chủ trì họp hàng quý với Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội. Tiếp theo, tăng ngân sách hoạt động Mặt trận lên năm phần nghìn ngân sách địa phương - từ mức hiện chỉ một đến hai phần nghìn - bằng cách đưa vào Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi từ năm 2026, ưu tiên cho hoạt động số, giám sát và tuyên truyền, ước tính nâng tổng ngân sách Mặt trận cả nước từ ba nghìn năm trăm tỷ lên mười hai nghìn tỷ đồng mỗi năm. Cuối cùng, tiếp tục hoàn thiện Luật MTTQVN (số 75/2015/QH13, sửa đổi, bổ sung năm 2025) thông qua các sửa đổi bổ sung tiếp theo, nhằm quy định rõ hơn vị trí pháp lý, quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận, bao gồm quyền khởi xướng trưng cầu ý dân về các vấn đề lớn và quyền kiện cáo hành chính nếu chính sách vi phạm lợi ích nhân dân, dự kiến trình Quốc hội thông qua vào năm 2028.
5.4. Nhóm giải pháp công nghệ: Xây dựng Mặt trận số - Kết nối toàn dân
Công nghệ 4.0 là công cụ đột phá để Mặt trận tiếp cận một trăm triệu dân trong thời đại số, biến không gian ảo thành diễn đàn dân chủ thực chất. Giải pháp công nghệ tập trung vào nền tảng số quốc gia và dữ liệu lớn, trong đó xây dựng Ứng dụng “Mặt trận 4.0” kết nối sáu mươi ba Ủy ban Mặt trận tỉnh/thành và bảy trăm huyện/thị với giao diện thống nhất, sử dụng công nghệ blockchain để đảm bảo minh bạch, cho phép người dân góp ý chính sách trực tuyến qua biểu mẫu và bình chọn, đồng thời bầu chọn đại biểu Mặt trận cấp cơ sở với thí điểm tại mười tỉnh năm 2027, hướng tới hai mươi triệu người dùng đăng ký vào năm 2030 và tích hợp với Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Song song đó, sử dụng dữ liệu lớn thông qua Trung tâm Phân tích Dữ liệu Xã hội trực thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận, ứng dụng trí tuệ nhân tạo để theo dõi một trăm nghìn từ khóa nhạy cảm trên mạng xã hội, dự báo điểm nóng xã hội về đất đai hay môi trường trước bảy mươi hai giờ và đề xuất giải pháp can thiệp sớm như tổ chức đối thoại trực tuyến khi phát hiện chia rẽ tôn giáo.
5.5. Nhóm giải pháp quốc tế: Mở rộng đoàn kết toàn cầu, bảo vệ lợi ích dân tộc
Đại đoàn kết không chỉ giới hạn trong biên giới quốc gia mà phải vươn ra toàn cầu, đặc biệt với năm triệu ba trăm nghìn kiều bào và các tổ chức tiến bộ quốc tế [42] Giải pháp quốc tế tập trung vào việc thành lập Mạng lưới Đại đoàn kết toàn cầu kết nối Mặt trận với các tổ chức tiến bộ tại Mỹ như cộng đồng Việt kiều California, châu Âu như Hội Người Việt tại Pháp và ASEAN như Liên đoàn Đoàn kết Singapore, tổ chức hội nghị trực tuyến hàng năm để chia sẻ kinh nghiệm chống phân biệt chủng tộc và bảo vệ lao động nhập cư. Đồng thời, tổ chức Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài về Đại đoàn kết định kỳ hai năm một lần bắt đầu từ năm 2026 tại Hà Nội, quy tụ một nghìn kiều bào tiêu biểu thảo luận về đầu tư xanh, chuyển giao công nghệ và bảo vệ chủ quyền biển đảo, với kết quả ký kết một trăm dự án kiều bào đầu tư về nước mỗi kỳ.
Năm nhóm giải pháp trên tạo thành hệ thống hoàn chỉnh, trong đó tư tưởng định hướng, tổ chức làm nền tảng, chính sách bảo đảm, công nghệ là công cụ và quốc tế là không gian mở rộng. Thực hiện đồng bộ đến năm 2030, Mặt trận sẽ trở thành tổ chức chính trị - xã hội hiện đại nhất khu vực, đủ sức tập hợp toàn dân, toàn diện, toàn cầu, thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [43]
6. Kết luận và kiến nghị
6.1. Kết luận
MTTQVN chính là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là hạt nhân chính trị - xã hội tập hợp mọi tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là sức mạnh nội sinh bất diệt giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách lịch sử và đương đại. Qua 95 năm hình thành, phát triển và hoàn thiện (1930 - 2025), Mặt trận đã chứng minh một chân lý biện chứng sâu sắc: đoàn kết không chỉ là truyền thống bất biến của dân tộc, mà còn là sức mạnh hiện hữu để chiến thắng mọi kẻ thù, và là tương lai bền vững để đất nước vươn tới phồn vinh. Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến kháng chiến chống thực dân, đế quốc, từ công cuộc Đổi mới 1986 đến hội nhập quốc tế hôm nay, Mặt trận luôn là cầu nối máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là diễn đàn hiệp thương dân chủ rộng lớn nhất, và là ngọn lửa tinh thần khơi dậy khát vọng cống hiến của hàng trăm triệu con dân Việt Nam trong và ngoài nước. Trong bối cảnh thời kỳ mới với những thách thức đa chiều - phân hóa xã hội, tác động mạng xã hội, biến đổi dân cư, hội nhập quốc tế - Mặt trận càng phải khẳng định vị thế hạt nhân lãnh đạo gián tiếp, người tổ chức thực tiễn, và người bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Chính vì vậy, xây dựng Mặt trận vững mạnh không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn là yêu cầu sống còn của cách mạng Việt Nam, là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định [44].
6.2. Kiến nghị
Để biến những phân tích lý luận, thực tiễn và giải pháp thành hành động cụ thể, cần có những kiến nghị mang tính chiến lược, khả thi và có tính đột phá thể chế, nhằm đưa công tác xây dựng Mặt trận và đại đoàn kết toàn dân tộc lên tầm cao mới. Cụ thể:
Ban hành Chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2030, tầm nhìn 2045, do Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ trì xây dựng và chỉ đạo thực hiện, với nội dung cốt lõi là: (i) xác định rõ các chỉ số đo lường đại đoàn kết (chỉ số niềm tin xã hội, chỉ số đồng thuận chính sách, chỉ số gắn kết cộng đồng); (ii) phân công trách nhiệm cụ thể cho MTTQ, các đoàn thể, chính quyền các cấp và doanh nghiệp; (iii) tích hợp vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 và Kế hoạch 05 năm 2026 - 2030. Chiến lược này sẽ là kim chỉ nam pháp lý - chính trị cho mọi hoạt động đoàn kết trong 20 năm tới, đảm bảo tính liên tục và đồng bộ từ trung ương đến cơ sở.
Thành lập Quỹ Đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở xã hội hóa rộng rãi, kết hợp nguồn ngân sách nhà nước (chiếm 30%), đóng góp bắt buộc từ doanh nghiệp (0,1% doanh thu) và tự nguyện từ kiều bào, người dân. Quỹ do Ủy ban Trung ương MTTQ quản lý, hoạt động minh bạch theo cơ chế kiểm toán nhà nước, ưu tiên hỗ trợ: (i) các chương trình giảm nghèo đa chiều tại vùng sâu, vùng xa; (ii) học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số; (iii) dự án khởi nghiệp thanh niên; (iv) cứu trợ thiên tai, dịch bệnh. Mục tiêu ban đầu: huy động 50 nghìn tỷ đồng trong 5 năm đầu (2026-2030), trở thành nguồn lực tài chính độc lập cho các hoạt động đại đoàn kết, giảm phụ thuộc ngân sách nhà nước.
Tổ chức Diễn đàn Quốc gia về Đại đoàn kết định kỳ 5 năm một lần, bắt đầu từ năm 2026 tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch nước, với sự tham gia của 1.000 đại biểu tiêu biểu (đại diện các giai tầng, tôn giáo, kiều bào, chuyên gia, doanh nhân). Diễn đàn sẽ: (i) tổng kết thực tiễn 5 năm; (ii) đánh giá các chỉ số đại đoàn kết; (iii) đề xuất điều chỉnh Chiến lược; (iv) công bố các sáng kiến đoàn kết tiêu biểu. Kết quả Diễn đàn được báo cáo trực tiếp Bộ Chính trị và Quốc hội, trở thành cơ chế tham vấn quốc gia cao nhất về đại đoàn kết, bổ sung cho Đại hội MTTQ các cấp.
95 năm là một chặng đường lịch sử, nhưng cũng là bệ phóng cho tương lai. MTTQVN - với bản chất là khối đại đoàn kết toàn dân tộc - sẽ tiếp tục là ngọn cờ đầu, là linh hồn, là sức mạnh Việt Nam trong thế kỷ XXI. Chỉ khi Mặt trận vững mạnh, dân tộc mới trường tồn.
Tài liệu tham khảo, trích dẫn:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2 (1930), Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 145-168.
[2] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2024). 95 năm MTTQVN: Hành trình đại đoàn kết, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 15-28.
[3] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 7, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 456.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 178.
[5] Quốc hội (2021). Nghị quyết về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 5, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 232.
[7] Trần Văn Giàu (1980). Về vấn đề đoàn kết dân tộc trong cách mạng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 45-67.
[8] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 10, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 118.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986). Văn kiện Đại hội VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 89.
[10] UNESCO (1990). Resolution on the 100th anniversary of Ho Chi Minh’s birth, Paris.
[11] Nguyễn Phú Trọng (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 156.
[12], [40] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2019). Điều lệ MTTQVN (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 178.
[14] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 6, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 321.
[15] David Easton (1965). A Systems Analysis of Political Life, Wiley, New York (dẫn lại trong Nguyễn Duy Quý, 2005, Hệ thống chính trị Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội).
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020). Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 145-168.
[17] Viện Lịch sử Đảng (2005). Lịch sử Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 78.
[18] Bộ Quốc phòng (2015). Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, tập VIII, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr. 234.
[19] Ủy ban Nhà nước về Người Việt Nam ở nước ngoài (2024). Báo cáo tổng kết công tác kiều bào 2020 - 2024, Hà Nội.
[20] Ủy ban Trung ương MTTQVN (2024). Báo cáo tổng kết Quỹ Vì người nghèo giai đoạn 2000 - 2024, Hà Nội.
[21] Đỗ Mười (1995). Mặt trận Tổ quốc - Ngôi nhà chung của toàn dân, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 12.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 45.
[23] Cục Thống kê (2024). Báo cáo Chỉ số Gini và bất bình đẳng thu nhập 2016-2023, Hà Nội.
[24] World Bank (2018). Vietnam Poverty and Equity Assessment, Washington DC, tr. 56.
[25] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024). Báo cáo Phát triển vùng miền 2024, Hà Nội.
[26] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 12, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 234.
[27] DataReportal (2024). Digital 2024: Vietnam, We Are Social, Kepios.
[28] Bộ Thông tin và Truyền thông (2024). Báo cáo An ninh mạng và thông tin sai lệch 2021 - 2024, Hà Nội.
[29] Cục Dân số (2025). Dự báo già hóa dân số 2025 - 2036, Bộ Y tế, Hà Nội.
[30] Bộ Y tế (2024). Chiến lược Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến 2030, Hà Nội.
[31] Cục Quản lý Lao động ngoài nước (2025). Báo cáo Lao động xuất khẩu 2024, Bộ Nội vụ, Hà Nội.
[32] Ngân hàng Nhà nước (2024). Báo cáo Kiều hối từ lao động nước ngoài 2024, Hà Nội.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 189.
[34] Bộ Công Thương (2024). Đánh giá Tác động FTA 2020 - 2024, Hà Nội.
[35] Viện Nghiên cứu Văn hóa (2024). Báo cáo Ảnh hưởng văn hóa ngoại lai qua mạng xã hội, Hà Nội.
[36] Ngân hàng Nhà nước (2025). Báo cáo Kiều hối Việt Nam 2024, Hà Nội.
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Nghị quyết Đại hội XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 178-180.
[38] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 9, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 301.
[39] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 - Môn Giáo dục công dân, Hà Nội.
[41] Quốc hội (2015). Luật MTTQVN số 75/2015/QH13 ngày 09/6/2015 (sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 97/2025/QH15 ngày 27/6/2025).
[42] Ủy ban Nhà nước về Người Việt Nam ở nước ngoài (2024). Chiến lược công tác kiều bào 2021 - 2030, Hà Nội.
[43] Nguyễn Phú Trọng (2023). Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 89.
[44] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, tr. 112.
Thạc sĩ NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
LÊ HÙNG
Học viện Chính trị khu vực I

