/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Hoàn thiện cơ chế thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng

Hoàn thiện cơ chế thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng

14/11/2025 19:10 |

(LSVN) - Thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng là một trọng tâm trong mặt trận đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đã được triển khai quyết liệt trong thời gian qua tại Việt Nam. Bên cạnh những thành quả đã đạt được trong công tác này, vẫn còn tồn tại những vấn đề thách thức trong việc thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng đòi hỏi cần có nghiên cứu, đánh giá và qua đó có những kiến nghị giải pháp hoàn thiện cơ chế thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng tại Việt Nam hiện nay.

Mở đầu

Tham nhũng được ví như “quốc nạn”, là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Tại Việt Nam, dưới sự lãnh đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước, công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực năm 2013. Các vụ án lớn như Vạn Thịnh Phát, Việt Á, FLC, Tân Hoàng Minh đã được đưa ra ánh sáng, xử lý nghiêm minh, tạo hiệu ứng răn đe mạnh mẽ trong xã hội.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại là tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng vẫn ở mức thấp, trung bình chỉ đạt khoảng 30 đến 40 phần trăm trong các đại án, theo báo cáo của Tổng cục Thi hành án dân sự năm 2024. Việc thu hồi và xử lý tài sản không chỉ là biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế mà còn là thước đo hiệu quả của cả hệ thống phòng, chống tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

1. Quan niệm về xủ lý và thu hồi tài sản tham nhũng

Tham nhũng là hành vi của các chủ thể có chức vụ, quyền hạn đã lạm dụng quyền lực, chức vụ, quyền hạn vì mục đich vụ lợi, qua đó trục lợi, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, cá nhân, tổ chức khác. Mục đích vụ lợi của chủ thể hành vi tham nhũng chủ yếu là nhóm lợi ích vật chất và tài sản là biểu hiện chính của nhóm này. Tài sản tham nhũng là các tài sản có được từ hành vi tham nhũng, bao gồm tiền mặt, bất động sản, cổ phần, hoặc các tài sản có giá trị khác. Theo quy định Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 xác định tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng.

Để đấu tranh hiệu quả với tham nhũng, thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng là một trong những trọng tâm hướng đến. Có nhiều cách thức thu hồi tài sản tham nhũng khác nhau được các quốc gia trên thế giới thực hiện, nhưng nhìn chung có 04 phương thức phổ biến, bao gồm: Thu hồi tài sản thông qua hình thức kết án; Thu hồi tài sản không qua hình thức kết tội; Thu hồi tài sản thông qua thủ tục hành chính; Thu hồi tài sản thông qua thủ tục dân sự. Tuy vậy, có thể hiểu thu hồi tài sản tham nhũng một quá trình, trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật để phát hiện, truy tìm, phong tỏa, tạm giữ, tịch thu tài sản do tham nhũng mà có để sung công quỹ nhà nước hoặc trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp của tài sản. Tại điều 93 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 quy định về xử lý tham nhũng cũng xác định “Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc tịch thu theo quy định của pháp luật”. Điều này khẳng định quan điểm nhất quán

2. Thực trạng công tác thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng

Về kết quả đã đạt được:

Công tác phòng, chống tham nhũng trong những năm gần đây đã ghi nhận nhiều tiến bộ đáng kể, đặc biệt trong việc xử lý các vụ án lớn và xây dựng khung pháp lý. Từ năm 2020 đến nay, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo xử lý hơn hai trăm vụ án tham nhũng nghiêm trọng, trong đó có nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng. Vụ Vạn Thịnh Phát với bị cáo Trương Mỹ Lan bị tuyên phạt tử hình đã thu hồi hơn một trăm nghìn tỉ đồng. Vụ Việt Á thu hồi khoảng một nghìn hai trăm tỉ đồng và xử lý hơn một trăm bị cáo. Các vụ FLC và Tân Hoàng Minh cũng thu hồi hàng nghìn tỉ đồng từ hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Về mặt pháp lý, hệ thống văn bản đã được hoàn thiện đáng kể. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định rõ trách nhiệm kê khai tài sản, thu nhập, chuyển đổi vị trí công tác và xử lý tài sản bất minh. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, quy định các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản và tịch thu tài sản trong các vụ án tham nhũng. Các nghị định như Nghị định 130/2020/NĐ-CP và Nghị định 59/2019/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về kê khai, kiểm soát tài sản và chuyển đổi vị trí công tác.

Về kết quả thu hồi, theo báo cáo của Tổng cục Thi hành án dân sự năm 2024, tổng số tiền phải thi hành án trong các vụ tham nhũng vượt quá một triệu năm trăm nghìn tỉ đồng, trong đó đã thi hành xong khoảng năm trăm nghìn tỉ đồng, đạt tỉ lệ khoảng ba mươi ba phần trăm. Riêng năm 2024, số tiền thu hồi đạt hơn một trăm hai mươi nghìn tỉ đồng, tăng mười lăm phần trăm so với năm trước. Đồng thời, công tác tuyên truyền đã nâng cao nhận thức xã hội, xây dựng văn hóa liêm chính trong đội ngũ cán bộ, công chức và phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân.

Những hạn chế còn tồn tại:

Mặc dù đạt được nhiều kết quả, công tác thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập nghiêm trọng, làm giảm hiệu quả tổng thể.

Trước hết, biện pháp kê biên tài sản còn nhiều hạn chế về phạm vi và tính kịp thời. Theo khoản 1 Điều 128 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, kê biên tài sản chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo, mà không mở rộng đến người thân hoặc các công ty sân sau. Điều này tạo cơ hội cho đối tượng tham nhũng tẩu tán tài sản ngay từ giai đoạn thanh tra, kiểm tra. Trong vụ Trương Mỹ Lan, hàng trăm bất động sản đã được chuyển nhượng cho người thân trước khi khởi tố. Tương tự, vụ Phan Văn Anh Vũ gặp khó khăn khi hai mươi trong số hai mươi tám tài sản kê biên bị tranh chấp sở hữu.[9]

Thứ hai, việc xác định phần tài sản tương ứng để kê biên thiếu hướng dẫn cụ thể. Khoản 3 Điều 128 Bộ luật Tố tụng Hình sự chỉ quy định kê biên phần tài sản tương ứng với mức phạt, tịch thu hoặc bồi thường, nhưng không có tiêu chí định lượng rõ ràng. Do đó, cơ quan điều tra thường e ngại kê biên sai dẫn đến khiếu nại, nên chọn phương án an toàn là không kê biên hoặc kê biên muộn, tạo khoảng trống thời gian để tài sản bị tẩu tán.

Thứ ba, việc xử lý vật chứng còn gây lãng phí và thiếu linh hoạt. Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định tiêu hủy hàng giả và bán đấu giá vật chứng mau hỏng, nhưng nhiều tài sản vẫn có giá trị sử dụng như ô tô, máy móc lại bị tiêu hủy. Tiêu chí mau hỏng không rõ ràng khiến giá trị tài sản giảm mạnh nếu phải chờ quyết định của tòa án. Trong vụ Việt Á, hàng triệu kit test còn hạn sử dụng đã bị tiêu hủy, gây thiệt hại hàng trăm tỉ đồng.

Thứ tư, giai đoạn thi hành án gặp nhiều trở ngại về tốc độ và phối hợp. Việc chuyển giao bản án từ tòa án đến cơ quan thi hành án thường chậm trễ và thiếu chi tiết. Quy định thông báo thi hành án phải gửi trực tiếp, không cho phép sử dụng email hoặc VNeID ngay từ lần đầu, làm kéo dài thời gian. Với tài sản chung của vợ chồng hoặc gia đình, phải chờ tòa án dân sự phân định, có thể mất từ hai đến ba năm. Hệ quả là tỉ lệ thi hành án có điều kiện chỉ đạt khoảng ba mươi lăm phần trăm.

Cuối cùng, hệ thống công nghệ hỗ trợ còn yếu kém. Chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia tập trung về kê khai tài sản cán bộ, biến động tài sản hay lịch sử giao dịch ngân hàng, đất đai, chứng khoán. Việc xác minh tài sản chủ yếu dựa vào tờ khai tự nguyện và điều tra thủ công, dẫn đến chậm trễ và dễ sai sót.

3. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện cơ chế thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng

Để khắc phục những bất cập trên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ pháp lý, công nghệ đến tổ chức thực thi.

Thứ nhất là, hoàn thiện pháp luật về thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng. Cụ thể, cần sửa đổi, bổ sung pháp luật để mở rộng phạm vi kê biên tài sản, áp dụng cho cả người liên quan như người thân và công ty sân sau. Nên cho phép kê biên tạm thời ngay từ giai đoạn thanh tra khi có dấu hiệu tẩu tán. Đồng thời, bổ sung hướng dẫn định lượng cụ thể về phần tài sản tương ứng, ví dụ dựa trên tỉ lệ phần trăm thiệt hại hoặc giá trị ước tính, và quy định kê biên là biện pháp bắt buộc trong các vụ tham nhũng lớn.

Thứ hai là, về công nghệ, cần khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản cán bộ, kết nối với Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống VNeID, cơ sở dữ liệu đất đai, ngân hàng và chứng khoán. Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện giao dịch bất thường như chuyển tiền lớn hoặc mua bán tài sản đột biến sẽ giúp ngăn chặn tẩu tán từ sớm.

Thứ ba là, trong thi hành án, cần cải cách thủ tục bằng cách cho phép thông báo thi hành án điện tử ngay từ lần đầu và thành lập đội đặc nhiệm thu hồi tài sản tham nhũng với sự tham gia liên ngành của công an, viện kiểm sát, tòa án, thi hành án và ngân hàng. Quy định Sở Tài chính làm đại diện Nhà nước trong thỏa thuận thi hành án và cắt giảm thủ tục trong các đại án, chẳng hạn cho phép thanh toán điện tử đồng loạt và bán đấu giá nhanh, sẽ tăng tốc độ xử lý.

Thứ tư là, về xử lý vật chứng, nên ưu tiên bán đấu giá thay vì tiêu hủy, trừ trường hợp hàng giả nguy hiểm, và ban hành tiêu chí rõ ràng về mau hỏng dựa trên thời hạn và điều kiện bảo quản. Việc thành lập kho bảo quản chuyên dụng cho vật chứng có giá trị lớn cũng là cần thiết.

Cuối cùng, cần tăng cường giám sát và phối hợp bằng cách quy định trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu các bộ, ngành về tỉ lệ thu hồi tài sản. Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân, đồng thời định kỳ công khai kết quả thu hồi trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ sẽ tạo áp lực và động lực thực thi.

Kết luận

Công tác thu hồi và xử lý tài sản tham nhũng là mắt xích quan trọng trong chuỗi phòng, chống tham nhũng. Dù đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, những bất cập về pháp lý, cơ chế, công nghệ và phối hợp vẫn đang làm suy giảm hiệu quả đáng kể. Tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” không chỉ dừng ở xử lý người vi phạm mà phải thể hiện ở việc lấy lại tài sản cho Nhà nước một cách triệt để.

Việc khắc phục các bất cập đòi hỏi sự đồng bộ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, cùng với ý chí chính trị mạnh mẽ và sự tham gia của toàn xã hội. Chỉ khi tài sản tham nhũng không còn nơi ẩn náu, công tác phòng, chống tham nhũng mới thực sự trở thành lá chắn vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Tài liệu tham khảo

[1]: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2024). *Báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm 2024*. [https://ubkttw.vn](https://ubkttw.vn).

[2]: Tổng cục Thi hành án dân sự – Bộ Tư pháp (2024). *Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2024 và nhiệm vụ năm 2025*. [http://thads.moj.gov.vn](http://thads.moj.gov.vn).

[3]: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2024). *Báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm 2024*. [https://ubkttw.vn](https://ubkttw.vn).

[4]: Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2018). Luật Phòng, chống tham nhũng 2018

[5]: Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. Bộ luật Tố tụng Hình sự số 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

[6]: Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2020). Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về kiểm soát tài sản, thu nhập.

[7]: Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2019). Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng

[8]: Báo Pháp luật Việt Nam (2024). “Vụ Vạn Thịnh Phát: Thu hồi tài sản – bài toán chưa có lời giải trọn vẹn”. Ngày 15/10/2024. [https://baophapluat.vn](https://baophapluat.vn).

[9]: Nguyễn Văn A (2024). “Bất cập trong kê biên tài sản tham nhũng: Thực trạng và giải pháp”. *Tạp chí Nghiên cứu lập pháp*, số 10/2024, tr. 45–56. [http://nghiencuulapphap.vn]

[10]: Báo Nhân Dân (2024). “Tăng cường thu hồi tài sản tham nhũng: Đừng để ‘của thiên trả địa’”. Ngày 20/11/2024. [https://nhandan.vn](https://nhandan.vn).

[11]: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2024). *Báo cáo công tác kiểm sát thi hành án dân sự trong các vụ án tham nhũng năm 2024*. [https://vksndtc.gov.vn](https://vksndtc.gov.vn).

[12]: Cổng Dịch vụ công quốc gia – Mục Kê khai tài sản. [https://dichvucong.gov.vn].

[13]: Bộ Chính trị (2021). Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 15/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản tham nhũng [https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/chi-thi-nghi-quyet/chi-thi-so-04-cttw-ngay-1562021-cua-bo-chinh-tri-ve-tang-cuong-su-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-cong-tac-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-5432]

[14]: Cổng thông tin điện tử Chính phủ – Chuyên mục Phòng, chống tham nhũng. [http://chinhphu.vn/pctn]

[15]: Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2024). Nghị quyết số 164/2024/QH15 ngày 18/6/2024 về đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2024–2030*. [https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/kyhopthuthu8/Pages/nghi-quyet.aspx?ItemID=164]

[16]: Báo Nhân Dân (2024). “Tăng cường thu hồi tài sản tham nhũng: Đừng để ‘của thiên trả địa’”. Ngày 20/11/2024. [https://nhandan.vn](https://nhandan.vn).

[17]: Tạp chí Tòa ánh Nhân dân (2024). “Thu hồi tài sản tham nhũng từ kinh nghiệm lập pháp của Liên minh châu Âu và khuyến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam”. (https://tapchitoaan.vn/thu-hoi-tai-san-tham-nhung-tu-kinh-nghiem-lap-phap-cua-lien-minh-chau-au-va-khuyen-nghi-hoan-thien-phap-luat-viet-nam10270.html)

Ths. LÊ NGỌC HƯNG

Học viện Hành chính và Quản trị công

Các tin khác