Ảnh minh họa.
1. Những khó khăn vướng mắc
Nhận thức và xử lý không thống nhất các vụ án được dư luận xã hội quan tâm, lên án:
Trường hợp thứ nhất: Ngày 02/8/2017, Trần Văn K. có hành vi dâm ô với cháu Nguyễn Thị N. 7 tuổi, phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015. K. có 4 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) theo khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng TNHS, K. có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường xong cho người bị hại, K. có nơi cư trú, làm việc rõ ràng và người giám hộ, cũng như gia đình bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt và cho K. được hưởng án treo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HS-ST ngày 29/12/2017, Tòa án Quân sự (TAQS) Khu vực 1 Quân khu V xử phạt Trần Văn K. 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng. Sau đó, Viện Kiểm sát Quân sự Quân khu 5 ra Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS ngày 16/01/2018, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với bị cáo Trần Văn K. Ngày 10/4/2018, TAQS Quân khu V xét xử phúc thẩm, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HS-ST ngày 29/12/2017 của TAQS Khu vực 1 Quân khu V, xử phạt Trần Văn K. 12 tháng tù. Qua vụ án trên có 2 quan điểm xử lý đối với Trần Văn K.
Quan điểm thứ nhất: Trần Văn K. có các điều kiện để được hưởng án treo nhưng hành vi dâm ô với cháu N. của K. làm tổn thương nghiêm trọng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý và nhân cách của cháu N., gây dư luận xấu trong xã hội, bị xã hội lên án. Vì vậy, K. không đủ điều kiện xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
Quan điểm thứ hai: Trần Văn K. có đủ điều kiện để “xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo”, bởi lẽ K. có 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng TNHS, K. có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường xong cho người bị hại, K. có nơi cư trú, làm việc rõ ràng và người giám hộ, cũng như gia đình bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt, cho K. được hưởng án treo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta.
Quan điểm của tác giả: Trần Văn K. không đủ điều kiện để “xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo”, mặc dù K. có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng TNHS, có nhân thân tốt, nhưng trường hợp của K. không được xem là “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, bởi lẽ hành vi của K. dâm ô với trẻ em gây dư luận xấu, bị xã hội lên án. Mặt khác Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017, đề nghị Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao chỉ đạo Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp xử lý nghiêm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em. Vì vậy, chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ nhất.
Trường hợp thứ hai: Trong ngày 24/12/2018, các Trung đội 1, 2, 3 của Đại đội 14, Trung đoàn 24, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 thực hiện nhiệm vụ bên ngoài đơn vị. Khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, chỉ huy tập trung bộ đội về lại đơn vị, khi lên xe ô tô thì Nguyễn Đức H. - Binh nhất - chiến sĩ Trung đội 2 và Phạm Hữu A. - Trung sỹ, Khẩu đội trưởng - Trung đội 1 cãi nhau về việc giành chỗ ngồi. Thấy vậy, Nguyễn Thái S. – Thượng sĩ, Phó Trung đội trưởng, Trung đội 1 nói với H.: “Ai lên xe trước thì ngồi trước, xe này có phải xe nhà mày đâu mà đòi đánh nó”, S. và H. cãi nhau dẫn đến xô xát, H. dùng tay đánh vào mặt S. một cái, sau đó được mọi người can ngăn nên sự việc chấm dứt.
Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, xe ô tô đưa bộ đội về đến đơn vị, S. sang phòng ở của Trung đội 2 để tìm H. Trên đường đi S. nhặt một gậy gỗ dài khoảng 70cm cứng, rắn chắc mang theo. Khi đến phòng ở Trung đội 2, S. thấy H. đang ở trong phòng, S. tiến lại hỏi: “Sao mày đánh tao”, H. không nói gì, liền lúc đó S. đã dùng gậy gỗ đánh H., H. nghiêng người và đưa tay lên đỡ, gậy gỗ trượt qua tay trúng vào đầu phía trước trán gây chảy máu nên H. bị choáng, hai tay ôm đầu rồi nằm xuống nền nhà. S. tiếp tục dùng gậy đánh vào phần hông, tay, đùi bên trái và bộ phận sinh dục của H., H. đau nên kêu la thì được mọi người chạy đến can ngăn, S. bỏ ra ngoài. Hậu quả, H. bị thương tích 5%. Người bị hại Nguyễn Đức H. có đơn yêu cầu xử lý bằng pháp luật hình sự đối với Nguyễn Thái S.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019 ngày 14/6/2019 của TAQS Khu vực 1 Quân khu V áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, đ, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS; xử phạt bị cáo Nguyễn Thái S. 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng. Sau khi chủ tọa tuyên bố kết thúc phiên tòa, các thành phần quá khích đã quay video đăng tải trên mạng xã hội, thể hiện sự bức xúc của gia đình và người thân, cho rằng mức xử phạt đối với bị cáo là quá nhẹ, chưa nghiêm…
Sau đó, bị hại kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét tăng mức hình phạt đối với bị cáo. Bản án hình sự phúc thẩm số 03/2019/HSPT ngày 17/10/2019 của TAQS Quân khu V sửa bản án sơ thẩm về hình phạt, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, đ, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái S. 09 tháng tù.
Qua vụ án trên, tác giả cho rằng, do bực tức vì bị đánh trong lúc lên xe ô tô trở về đơn vị, chiều ngày 24/12/2018, S. đã dùng gậy gỗ đánh và gây thương tích cho H. với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 5%. Sau khi phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; hành vi của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên HĐXX cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, đ, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo S. 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng là phù hợp, đúng theo quy định của pháp luật. Vấn đề đặt ra là sau khi xét xử sơ thẩm thì người thân, gia đình bị hại quá khích đăng tải những hình ảnh trên mạng xã hội, gây ra dư luận không tốt. Có phải vấn đề này, gây ra áp lực cho cấp xét xử phúc thẩm và sau đó mặc dù không có thêm tình tiết gì mới, HĐXX cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm và không cho bị cáo được hưởng án treo?.
Căn cứ vào đặc điểm nhân thân người phạm tội để cho hưởng án treo, vẫn có sự nhận thức không thống nhất
Khoản 1 Điều 65 BLHS quy định: Căn cứ vào nhân thân của người phạm tội, nếu xét thấy không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù… Như vậy, điều luật không hề đòi hỏi người phạm tội phải có nhân thân tốt như nhiều người vẫn quan niệm trong khoa học luật hình sự và thực tiễn gần đây [1]. Điều luật chỉ quy định các đặc điểm nhân thân là thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà thôi; thậm chí, có thời kỳ tình tiết này được hướng dẫn chỉ cần người phạm tội “Có nhân thân không xấu” là có thể cho hưởng án treo [2]. “Nhân thân tốt” và “nhân thân không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù” tất nhiên không thể là một được. Chính đây là điều kiện cần phải được nhận thức chính xác, hướng dẫn áp dụng thống nhất án treo, mà không thu hẹp phạm vi áp dụng án treo theo tinh thần luật định.
Ví dụ qua vụ án: Nguyễn Văn C. làm nghề lái xe ôm, chở vợ đi ăn tiệc cưới (vợ làm Công nhân viên của Công ty TNHH MTV 72 Binh đoàn 15). Trên đường chở vợ về nhà, do không làm chủ được tay lái, C. đâm phải mố cầu làm cả 2 vợ chồng rơi xuống sông; hậu quả là vợ C. chết. Về nhân thân, trước đó khoảng 02 tháng, C. đã bị xử phạt hành chính vì vi phạm quy định về an toàn giao thông; C. có 02 con nhỏ (05 tuổi và 03 tuổi); gia đình thân thích nội ngoại không còn ai… TAQS Khu vực 1 Quân khu S cho rằng, mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, nhưng nhân thân không tốt, nên đã xử phạt C. 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 260 BLHS.
Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo. TAQS Quân khu S, xét xử phúc thẩm xử phạt bị cáo C. 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo (thời gian thử thách là 48 tháng) vì cho rằng: Không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù để có điều kiện nuôi dạy các con nhỏ”. Trong vụ án này rõ ràng bị cáo C. có nhân thân không tốt, nhưng nhân thân đó là không cần bắt phải chấp hành hình phạt tù theo luật định. Khi xét xử, việc đánh giá của Tòa án như thế nào là “không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù” xuất phát từ các yếu tố nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án, yêu cầu phòng, chống tội phạm…
Trong trường hợp người phạm tội nhiều lần nhưng thuộc các trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, có nơi cư trú rõ ràng, có khung hình phạt dưới 03 năm tù
Ví dụ qua vụ án: Ngày 22/7/2020, Trần Văn K. (sinh năm 1987) trộm cắp 01 điện thoại di động giá trị theo định giá là 2.200.000 đồng; ngày 16/8/2020, Trần Văn K. trộm cắp số tiền 2.010.000 đồng. Trần Văn K. bị khởi tố, truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng là “phạm tội từ 02 lần trở lên”. Tuy nhiên, Trần Văn K. cũng có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 BLHS và có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, là lao động chính trong gia đình, có con nhỏ mắc bệnh hiểm nghèo đang cần điều trị nhưng xét theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ thì bị cáo K. không được hưởng án treo.
Như vậy, nếu áp dụng quy định này để xét xử không cho Trần Văn K. được hưởng án treo sẽ gây bất lợi cho người phạm tội, không thể hiện tính nhân đạo của pháp luật vì K. phạm tội nhiều lần nhưng cùng một tội và giá trị tài sản không lớn, vẫn thuộc khoản 1 Điều 173 BLHS, có khung hình phạt từ 06 tháng đến 03 năm… Có quan điểm cho rằng, khi gặp các trường hợp này, HĐXX thường “lách luật” bằng cách chuyển sang xử phạt cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, cần phải có hướng dẫn rõ ràng để áp dụng trên thực tiễn, tránh trường hợp “lách luật” như đã nói trên làm ảnh hưởng đến tính tôn nghiêm của pháp luật.
Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, trong BLHS năm 2015 quy định chế định án treo chỉ có một điều luật nên không chứa đựng hết các yếu tố thuộc nội hàm của án treo. Chính sự hạn chế này làm cho việc hướng dẫn áp dụng pháp luật về án treo của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, vì chỉ có một điều luật nên không thể bao quát hết các nhu cầu của xã hội về án treo trong tình hình mới; đây cũng là một thiếu sót cần khắc phục.
Vì vậy, theo tác giả, qua thực tiễn thi hành BLHS năm 2015 nên nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, xây dựng một chế định án treo mới theo hướng chế định án treo có nhiều điều luật. Tác giả đề xuất có thể là 03 điều luật: 01 điều luật nói về khái niệm, căn cứ và những điều kiện để áp dụng án treo; 01 điều luật quy định về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách án treo; 01 điều luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người được hưởng án treo. Đồng thời nên thay đổi chế định “án treo” trở thành chế định “miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện” cho dễ hiểu và phù hợp với tính chất của các biện pháp không tước tự do khác.
Hai là, bổ sung vào Nghị quyết số 02/2018/NQ: Không được xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với tội phạm mà dư luận xã hội lên án như tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”,... Đối với các tội phạm về chức vụ, tùy vào hành vi phạm tội cụ thể, có thể xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo để đảm bảo sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta.
Ba là, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cần quán triệt chính sách hình sự nhân đạo, hướng thiện, coi trọng tính phòng ngừa, hạn chế hình phạt tù của Đảng và Nhà nước ta, nhận thức chính xác, đầy đủ, quán triệt tốt Điều 65 BLHS năm 2015 và tổng kết thực tiễn xét xử những năm qua để tiếp tục sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/2018/NQ, đặc biệt là hướng dẫn về điều kiện, nhất là điều kiện về nhân thân không cần bắt chấp hành hình phạt tù để áp dụng án treo; hạn chế các hướng dẫn mang tính máy móc, cứng nhắc trong áp dụng chế định này.
Trên đây là quan điểm của tác giả, mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và bạn đọc.
NGUYỄN TẤT TRÌNH
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5