Một trong những bất cập lớn là việc công dân sau khi chuyển nơi cư trú, thay đổi nơi học tập hoặc làm việc thường không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đăng ký lại hoặc di chuyển hồ sơ NVQS về nơi cư trú mới. Tình trạng này xảy ra phổ biến ở nhóm công dân tạm vắng dài ngày, sinh viên tốt nghiệp nhưng không quay về địa phương, người lao động di cư tự do… Trong khi đó, hệ thống pháp luật hiện hành chưa có quy định đủ chặt chẽ để buộc công dân thực hiện nghĩa vụ này, hoặc nếu có thì chưa có chế tài rõ ràng và nghiêm khắc. Hệ quả là nguồn công dân sẵn sàng nhập ngũ bị phân tán, không được quản lý tập trung, gây khó khăn cho công tác nắm bắt, xét duyệt và gọi công dân nhập ngũ hằng năm.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Đối với sinh viên, tình trạng lưu ban, nợ môn, thi lại tốt nghiệp, gia hạn thời gian học tập hoặc thôi học giữa chừng nhưng không cập nhật thông tin NVQS là hiện tượng phổ biến. Thậm chí có trường hợp sinh viên đã hoàn thành chương trình học nhưng vẫn lưu lại trường với lý do chờ tốt nghiệp hoặc làm thêm, trong khi không thực hiện việc chuyển hồ sơ NVQS về địa phương. Việc này dẫn đến hiện tượng kéo dài thời gian được hoãn, miễn gọi nhập ngũ một cách không chính đáng, gây ra sự thiếu công bằng giữa các nhóm công dân và ảnh hưởng đến uy tín của công tác tuyển quân.
Từ thực trạng trên, cần có những giải pháp mạnh mẽ cả về hoàn thiện pháp luật và đổi mới phương thức quản lý hành chính.
Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng quy định rõ trách nhiệm của công dân trong việc cập nhật thông tin NVQS khi thay đổi nơi cư trú, học tập, làm việc. Bên cạnh đó, cần bổ sung chế tài xử phạt hành chính đối với hành vi không thực hiện nghĩa vụ đăng ký hoặc di chuyển hồ sơ NVQS đúng quy định.
Thứ hai, cần quy định rõ nghĩa vụ phối hợp giữa các cơ sở giáo dục, cơ quan sử dụng lao động và chính quyền địa phương trong việc cung cấp, cập nhật thông tin liên quan đến tình trạng học tập, làm việc của công dân trong độ tuổi nhập ngũ. Việc chuẩn hóa tiêu chí “hoàn thành chương trình học” cũng là cần thiết để xác định chính xác thời điểm công dân không còn thuộc diện hoãn gọi nhập ngũ.
Về mặt quản lý hành chính, cần xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông, dùng chung giữa các ngành công an, quân sự, giáo dục và lao động – thương binh – xã hội, đồng thời kết nối với hệ thống quản lý cư trú quốc gia theo mã định danh cá nhân. Qua đó, mọi biến động về cư trú, học tập, lao động của công dân có thể được tự động cập nhật và cảnh báo cho các cơ quan quân sự có thẩm quyền.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật NVQS cần được đẩy mạnh hơn nữa, đặc biệt trong các trường đại học, cao đẳng, cơ sở đào tạo nghề. Việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của công dân trẻ về nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ tổ quốc là yếu tố quan trọng, lâu dài để bảo đảm tính bền vững của công tác tuyển quân.
Tóm lại, để khắc phục tình trạng lợi dụng kẽ hở trong đăng ký NVQS nhằm trốn tránh nghĩa vụ, đồng thời bảo đảm tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong tuyển chọn công dân nhập ngũ, cần có sự vào cuộc đồng bộ của hệ thống chính trị, sự hoàn thiện pháp luật kịp thời và sự hiện đại hóa trong quản lý hành chính nhà nước. Chỉ khi đó, công tác tuyển quân mới thật sự đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
HOÀNG VĂN TƯỞNG - HOÀNG THÙY LINH
Tòa án Quân sự Quân khu 7