Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự TAND Tối cao nhận định:
Tài sản mà các đương sự tranh chấp là diện tích đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội mang tên hộ anh Phạm Gia Nam.
Hồ sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia Phác được UBND xã Vân Tảo, huyện Thường Tín cấp đất giãn dân vào năm 1992. Căn cứ biên bản bàn giao đất của UBND xã cho ông Phác thì thời điểm có biên bản giao đất này chị Hồng đã kết hôn với anh Nam. Tuy nhiên, theo xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm tại xã Vân Tảo, Thường Tín về thủ tục cấp đất thì xã Vân Tảo đã có chủ trương cấp đất giãn dân từ năm 1991. Dù khi làm thủ tục cấp đất, gia đình ông Phác chỉ có 04 người là ông Phác, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (vì thời điểm này anh Nam đi bộ đội chưa về địa phương), nhưng việc cấp đất giãn dân là cấp đất cho hộ đông người, cấp cho vợ chồng ông Phác và các con, nên anh Nam cũng là đối tượng được cấp đất. Sau khi nhận đất, gia đình ông Phác đã xây dựng một căn nhà cấp 4. Năm 1993, gia đình ông Phác cho vợ chồng anh Nam chị Hồng ra ở riêng trên diện tích đất này và anh chị là người quản lý, sử dụng đất liên tục từ đó cho đến nay.
Chị Hồng cho rằng, gia đình ông Phác đã tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất nêu trên, ông Phác và anh Nam khẳng định gia đình chưa cho.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Xét thấy: Theo xác minh tại UBND xã Vân Tảo thì năm 2001, xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21/12/2001, anh Nam được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 02 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.
Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời, buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Nội dung án lệ
“Theo xác minh tại UBND xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21/12/2001 anh Nam được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 02 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.
Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự”.
Bình luận
Đây là vụ án ly hôn, trong đó các đương sự tranh chấp mảnh đất 80m2, do gia đình chồng cho vợ chồng nhưng không lập văn bản về tặng cho. Khi ly hôn, gia đình chồng và chồng phủ nhận việc tặng cho, người vợ khẳng định gia đình chồng đã cho mảnh đất cho vợ chồng.
Hội đồng Giám đốc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao (HĐXX) đã nêu ra các tình tiết của vụ án như sau:
- Năm 1993, gia đình bố mẹ chồng đã cho vợ chồng người con ra ở riêng trên mảnh đất 80m2, vợ chồng người con đã quản lý,sử dụng đất này liên tục suốt từ đó cho tới thời điểm ly hôn năm 2009;
- Vợ chồng người con đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào 2001, năm 2002 đã xây dựng nhà ở hai tầng kiên cố trên đất đó và năm 2005 xây thêm tum tầng 3, cha mẹ và những người khác trong gia đình đều biết việc xây dựng này nhưng không có ý kiến phản đối gì.
Căn cứ vào những tình tiết nêu trên, HĐXX kết luận bố mẹ chồng đã cho vợ chồng người con mảnh đất đó. Mặc dù, HĐXX không đưa ra nguyên tắc pháp lý của vụ việc, nhưng có thể nhận ra nguyên tắc đó như sau: "Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất, vợ chồng người con đã quản lý,sử dụng liên tục, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đã xây nhà ở kiên cố trên đất đó, mọi người trong gia đình đều biết nhưng không phản đối gì ,thì phải xác định vợ chồng người con đã được cho đất đó". Nếu theo nguyên tắc này, có thể thấy là sẽ khó có vụ việc có tất cả các tình tiết giống như như vụ việc nêu trên, dẫn đến bản án không có giá trị án lệ mà chỉ có tính chất sửa sai cho Tòa án cấp dưới về đánh giá chứng cứ.
Có thể nêu ra các phương án viết nguyên tắc pháp lý của vụ án này như sau:
Phương án 1 đưa ra nguyên tắc: "Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất, vợ chồng người con đã thực thi quyền của chủ sở hữu đối với mảnh đất, thì phải xác định vợ chồng người con đã được cho đất đó". Với nguyên tắc này, phạm vi của án lệ sẽ rất rộng, sẽ có quá nhiều vụ án tương tự hoặc giống với án lệ. Câu hỏi đặt ra là có cần quy định phạm vi của án lệ quá rộng hay không? Câu trả lời có lẽ là không.
Phương án 2 có thể đưa ra một nguyên tắc như sau: "Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất,vợ chồng người con đã thực thi quyền của chủ sở hữu đối với đất đó và mọi người trong gia đình đều biết việc này nhưng không phản đối gì, thì phải xác định vợ chồng người con đã được cho đất đó". Theo đó, phạm vi của án lệ là vừa đủ, có thể bao hàm cả những trường hợp vợ chồng người con đã quản lý, sử dụng mảnh đất nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chưa xây nhà kiên cố trên đất. Có thể phương án này phù hợp hơn.
Như vậy, để hình thành án lệ, HĐXX nói chung cần phải thảo luận, xác định phạm vi của án lệ để soạn thảo nguyên tắc pháp lý của bản án được rõ ràng, chính xác.
Một vấn đề khác cần trao đổi là, Quyết định của HĐXX kết luận khi chia tài sản phải coi người chồng có công sức đóng góp nhiều hơn nhưng không chỉ ra căn cứ cho kết luận đó, điều này là không phù hợp ở một Quyết định giám đốc thẩm.
NGÔ CƯỜNG