Đặt vấn đề
Quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự (sau đây viết tắt “vụ án dân sự” là “VADS”) là một nhóm quyền tố tụng phản ánh trọng tâm nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt “Bộ luật Tố tụng dân sự” là “BLTTDS”) ở thủ tục phúc thẩm VADS. Bên cạnh đó, bản chất của quan hệ pháp luật dân sự là cơ sở của việc quy định quyền tự định đoạt của đương sự nên đương sự có quyền tự do ý chí, quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của mình ngay cả khi vụ án đang được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, quy định của BLTTDS năm 2015 về quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS đã bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện và sửa đổi, bổ sung các quy định này là một nhu cầu tất yếu, khách quan.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Thực trạng quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về các quyền tố tụng thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS
Quyền kháng cáo, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo của đương sự
Trong tố tụng dân sự (sau đây viết tắt “tố tụng dân sự” là “TTDS”), quyền kháng cáo, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo của đương sự không những thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự mà còn là một trong những cơ chế bảo đảm cho nguyên tắc hai cấp xét xử (bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ghi nhận tại Điều 17 BLTTDS năm 2015).
Tuy nhiên, một số quy định về kháng cáo, thay đổi, bổ sung kháng cáo trong BLTTDS năm 2015 còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập như sau:
Thứ nhất, xét về đối tượng của kháng cáo, trong đó có quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS là chưa phù hợp với thực tiễn giải quyết tại Tòa án. Theo tác giả, việc quy định quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS là đối tượng của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là không cần thiết, bởi lẽ:
- Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS không phải là phán quyết cuối cùng của Tòa án cấp sơ thẩm về việc giải quyết nội dung quan hệ tranh chấp trong VADS, đồng thời quyết định này chưa phân định rõ ràng quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đang có tranh chấp. Bên cạnh đó, quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS chỉ mang ý nghĩa tạm dừng quy trình tố tụng vì vụ án có những căn cứ khiến cho việc giải quyết vụ án đó chưa thể tiếp tục được, Tòa án sẽ tiếp tục việc giải quyết vụ án khi căn cứ tạm dừng đó chấm dứt hoặc không còn tồn tại;
- Trường hợp đương sự thực hiện quyền kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS, sau đó Tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý để giải quyết, nhưng lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án không còn mà đương sự không rút kháng cáo thì có thể dẫn đến sự chồng chéo trong thẩm quyền giải quyết giữa hai cấp Tòa án như sau: Tòa án cấp sơ thẩm vẫn ban hành quyết định tiếp tục giải quyết VADS theo quy định tại Điều 216 BLTTDS năm 2015 trong khi Tòa án cấp phúc thẩm vẫn đang tiến hành giải quyết do có kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS.
Ngược lại, tương tự trường hợp giả định nêu trên nhưng đương sự rút toàn bộ kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất, vì: Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 289 BLTTDS năm 2015 để ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; song theo khoản 2 Điều luật này thì quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS được coi là có hiệu lực từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Từ đây, nhận thấy sự thiếu logic với quy định tại Điều 216 BLTTDS năm 2015 khi “…Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết VADS…”.
Thứ hai, bàn luận xoay quanh kháng cáo của đương sự, tồn tại hai quan điểm trái chiều về việc kháng nghị của Viện Kiểm sát có ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm hay không khi: (i) Đương sự không kháng nhưng Viện Kiểm sát có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; hoặc (ii) VADS vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị. Có ý kiến đánh giá BLTTDS năm 2015 vẫn quy định quyền kháng nghị của Viện Kiểm sát còn quá rộng, chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, làm kéo dài quá trình tố tụng cũng như không đảm bảo tính dứt điểm của bản án, quyết định. Do đó, cần phải hạn chế quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện Kiểm sát. Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS của Viện Kiểm sát bắt đầu từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện của đương sự cho đến khi Tòa án ra được bản án, quyết định dân sự đúng pháp luật có hiệu lực thi hành (2), đồng thời một trong những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện Kiểm sát khi kiểm sát giải quyết VADS theo quy định tại khoản 7 Điều 27 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2025 là: “Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật…” nên Viện Kiểm sát ban hành kháng nghị phúc thẩm là phù hợp. Nói cách khác, quan điểm này xuất phát từ vai trò, vị trí của Viện Kiểm sát để nhìn nhận mục đích của kháng nghị là bảo đảm việc giải quyết VADS kịp thời, đúng pháp luật, không ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, theo tác giả, cần cân nhắc cụ thể hơn về việc ban hành kháng nghị phúc thẩm, nhất là khi không có kháng cáo của đương sự để bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS.
Thứ ba, về quyền rút kháng cáo của đương sự: Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo (khoản 3 Điều 284 BLTTDS năm 2015). Hậu quả pháp lý của việc rút kháng cáo là Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo. Về cơ bản, quy định của BLTTDS năm 2015 vẫn giữ nguyên các quy định của BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về rút kháng cáo. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 284 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm về thẩm quyền giải quyết hậu quả pháp lý của việc người kháng cáo rút kháng cáo, đó là việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa quyết định, tại phiên tòa do HĐXX quyết định.
Trường hợp có nhiều kháng cáo nhưng chỉ một hoặc một số chủ thể đã kháng cáo rút kháng cáo mà vụ án vẫn còn kháng cáo của các chủ thể khác thì theo quy định tại khoản 3 Điều 289 BLTTDS năm 2015, HĐXX phúc thẩm nhận định về việc người kháng cáo rút một phần kháng cáo và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những kháng cáo đã rút đó. Tuy nhiên, điều kiện để HĐXX phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những kháng cáo đã rút đó thì BLTTDS năm 2015 chưa quy định rõ ràng cũng như chưa quy định xử lý trường hợp người kháng cáo cố tình kháng cáo để trì hoãn thi hành bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc lạm dụng kháng cáo để kéo dài quá trình giải quyết VADS, sau đó rút kháng cáo trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm.
Quyền rút đơn khởi kiện của nguyên đơn trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
Ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào, Tòa án cũng tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong việc giải quyết vụ án, trong đó có quyền rút yêu cầu của đương sự ở giai đoạn phúc thẩm. BLTTDS năm 2015 chỉ quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Theo đó, Điều 299 Bộ luật này quy định:
“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ luật này quy định”.
Giải quyết việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm của BLTTDS năm 2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên quy định tại Điều 269 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện, thì HĐXX phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không đồng ý việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện và tùy trường hợp mà giải quyết như sau: (1) Nếu bị đơn không đồng ý, thì không chấp nhận việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện; hoặc (2) Nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện, HĐXX phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Cũng chính vì lý do nguyên đơn rút đơn khởi kiện nên HĐXX phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trong trường hợp này nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án. Tuy nhiên, Điều 269 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định nguyên đơn chỉ có quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn, nay BLTTDS năm 2015 đã bỏ quy định: “nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn” để phù hợp với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (3).
Liên quan đến việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn ở thủ tục phúc thẩm theo quy định tại Điều 299 BLTTDS năm 2015 còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập như sau:
Thứ nhất, quy định của BLTTDS năm 2015 nêu trên chưa bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đương sự khi chưa quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải hỏi ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trong khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng là một trong các đương sự của vụ án. Dưới góc nhìn chủ quan, tác giả cho rằng trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý việc này nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, có kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm mà ở thủ tục phúc thẩm VADS họ không rút đơn kháng cáo, không rút yêu cầu độc lập thì Tòa án vẫn phải xét xử phúc thẩm. Bởi lẽ, theo khoản 2 Điều 73 BLTTDS năm 2015 thì “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án thì có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này”, tức là họ có quyền như một “nguyên đơn”, do đó khi họ không rút đơn yêu cầu, về nguyên lý, họ được chuyển sang tư cách nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn và HĐXX phúc thẩm không thể đình chỉ vụ án được.
Thứ hai, quy định tại Điều 299 BLTTDS năm 2015 đề cập quyền rút đơn khởi kiện của nguyên đơn ở trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nhưng lại không quy định về quyền rút yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền rút yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng là chưa đảm bảo sự bình đẳng trong việc rút yêu cầu giữa các đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS.
Quyền thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm
Quy định tại Điều 300 BLTTDS năm 2015 chỉ đề cập trường hợp các đương sự tự thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, trong khi đó, xuyên suốt các quy định về thủ tục phúc thẩm của BLTTDS năm 2015 chưa có quy định nào trực tiếp đề cập trường hợp đương sự thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Nếu như trước đây, khi các đương sự tự thỏa thuận ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm và đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì Điều 19 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: “Trường hợp trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và các đương sự yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của họ, thì Tòa án yêu cầu các đương sự làm văn bản ghi rõ nội dung thỏa thuận và nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án. Văn bản này được coi như chứng cứ mới bổ sung. Tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi lại các đương sự về thỏa thuận của họ là có tự nguyện hay không và xem xét thỏa thuận đó có trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội hay không; nếu thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự” (4). Tuy nhiên, hướng dẫn này đã hết hiệu lực và chưa có quy định thay thế, đồng thời BLTTDS năm 2015 cũng chưa có quy định về vấn đề thỏa thuận của đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm VADS. Ngoài ra, Điều 300 BLTTDS năm 2015 cũng chưa quy định rõ ràng về phạm vi thỏa thuận của các đương sự có bị giới hạn bởi phạm vi xét xử phúc thẩm hay không (5)?
Theo tác giả, trong sự giao thoa của quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS, cụ thể là quyền thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án với nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (Điều 17 BLTTDS năm 2015) và nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án (Điều 19 BLTTDS năm 2015) thì thỏa thuận của các đương sự ở thủ tục phúc thẩm cần đặt trong giới hạn bởi phạm vi xét xử phúc thẩm. Điều này không phải không cho phép đương sự tự do ý chí, tự nguyện thỏa thuận ở thủ tục phúc thẩm VADS mà là pháp luật TTDS đặt ra giới hạn hợp lý nhằm bảo đảm trật tự tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết VADS.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLTTDS năm 2015 về quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS
Thứ nhất, lược bỏ đối tượng kháng cáo là quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS tại khoản 5 Điều 215, Điều 271 BLTTDS năm 2015 để phù hợp với thực tiễn giải quyết VADS tại Tòa án.
Thứ hai, liên quan đến vấn đề kháng nghị của Viện Kiểm sát, BLTTDS năm 2015 cần quy định rõ ràng trong trường hợp toàn bộ các đương sự không kháng cáo, nghĩa là họ chấp nhận bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thì chỉ khi phát hiện có sai sót nghiêm trọng như xác định thiếu tư cách đương sự, giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự,… Viện Kiểm sát mới ban hành kháng nghị phúc thẩm.
Thứ ba, BLTTDS năm 2015 cần đưa ra quy định xử lý trường hợp người kháng cáo cố tình kháng cáo để trì hoãn thi hành bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc lạm dụng kháng cáo để kéo dài quá trình giải quyết VADS, sau đó rút kháng cáo trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Theo đó, có thể tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia như: Pháp luật TTDS Nhật Bản, trong trường hợp kháng cáo Koso (kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm) bị bác, Tòa án phúc thẩm có thể yêu cầu người kháng cáo trả khoản tiền ít hơn mười lần so với lệ phí nộp kháng cáo Koso nếu Tòa án thấy người kháng cáo nộp kháng cáo Koso chỉ với ý định làm chậm trễ việc kết thúc vụ án; hoặc Điều 559 BLTTDS Cộng hòa Pháp quy định trong trường hợp kháng cáo chính nhằm mục đích trì hoãn hoặc lạm dụng thì người kháng cáo có thể bị phạt tiền từ 100 đến 10.000 Franc và có thể phải bồi thường thiệt hại, nếu có yêu cầu (6).
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung Điều 299 BLTTDS năm 2015 theo hướng quy định thêm quyền rút yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền rút yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm để bảo đảm sự bình đẳng trong việc rút yêu cầu giữa các đương sự. Hơn nữa, trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm cũng cần sửa đổi, bổ sung theo hướng HĐXX phúc thẩm phải hỏi ý kiến của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ năm, “luật hóa” quy định tại Điều 19 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP vào Điều 300 BLTTDS năm 2015 theo hướng trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và các đương sự yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của họ, thì Tòa án yêu cầu các đương sự làm văn bản ghi rõ nội dung thỏa thuận và nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án. Văn bản này được coi như chứng cứ mới bổ sung. Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm phải hỏi lại các đương sự về thỏa thuận của họ là có tự nguyện hay không và xem xét thỏa thuận đó có vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội hay không; nếu thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì HĐXX vào phòng nghị án thảo luận và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Nhìn chung, các quyền tố tụng - bao gồm quyền kháng cáo, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, quyền rút đơn khởi kiện của nguyên đơn trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và quyền thỏa thuận tại phiên tòa phúc thẩm của đương sự được quy định tại BLTTDS năm 2015 đã và đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn thực hiện các quyền này của đương sự khi giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án, song vẫn tồn tại một số vướng mắc, bất cập nhất định. Hơn nữa, các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng phát triển cũng như tác động khách quan của hội nhập quốc tế nên việc tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm VADS là rất cần thiết.
[1] Bài viết này được trích lọc từ đề tài nghiên cứu luận văn “Quyền tự định đoạt của đương sự ở thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự” của HVCH. Phùng Thị Phương Thảo (trường Đại học Luật Hà Nội) và được chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với khuôn khổ tạp chí.
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Hội thảo khoa học, Góp ý dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Hà Nội, tr. 15.
[3] Trần Anh Tuấn (chủ biên, 2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 664.
[4] Điều 19 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5] Nguyễn Như Hiển, “Quyền tự định đoạt của đương sự trong thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự”, Tạp chí Nghề luật, số 02/2025, tr. 38.
[6] Điều 303 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản, Điều 559 Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp, tham khảo từ tài liệu: Nguyễn Thị Thu Hà (2017), Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân (Sách chuyên khảo), Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 110.
PHÙNG THỊ PHƯƠNG THẢO

