Một số khái niệm liên quan
Tài sản tham nhũng:
Theo khoản 2 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi năm 2020), Tài sản tham nhũng được hiểu là tài sản có được từ tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Ngoài ra, căn cứ Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản được hiểu là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản có thể tồn tại dưới dạng là bất động sản hoặc động sản. Như vậy, tài sản tham nhũng có thể tồn tại dưới hình thức là tiền, giấy tờ có giá, vật có giá trị... Khái niệm tài sản tham nhũng được hiểu chung cho cả khu vực trong nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
Tài sản tham nhũng có từ 02 nguồn gốc sau:
Một là, tài sản tham nhũng có được từ hành vi tham nhũng. Theo đó, tài sản tham nhũng có nguồn gốc trực tiếp từ các hành vi tham nhũng như: tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi, lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi…

Ảnh minh họa.
Hai là, tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng. Tài sản tham nhũng trong trường hợp này được hình thành theo cách thức: người có hành vi tham nhũng đã lấy tiền, tài sản tham nhũng có được để sử dụng vào mục đích khác nhau nhằm tạo ra tài sản mới. Chẳng hạn, người có hành vi tham nhũng lấy tiền có được từ hành vi tham nhũng để đầu tư kinh doanh (nhà hàng, khách sạn, khu nghỉ dưỡng, bất động sản…); hoặc cũng có thể lấy tiền/hoặc bán tài sản tham nhũng là vật đổi lấy giá trị rồi gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng để lấy tiền lãi định kỳ... Ngoài ra, đối với các dịch vụ tham quan trong nước và ngoài nước, hoặc đại diện của doanh nghiệp, tổ chức trong khu vực ngoài nhà nước hối lộ người có chức vụ, quyền hạn bằng cách tài trợ cho người thân (con) của họ các chuyến đào tạo ở nước ngoài, trong nước..., cũng có thể được xác định là tài sản tham nhũng khi đạt được những điều kiện theo quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng.
Phát hiện tài sản tham nhũng: Có thể khẳng định, khi phát hiện hành vi tham nhũng cũng là lúc phát hiện tài sản tham nhũng và ngược lại. Bên cạnh đó, phát hiện tài sản tham nhũng còn có quan hệ mật thiết với việc xử lý tài sản tham nhũng cũng như hiệu quả của hoạt động phòng chống tham nhũng. Bởi lẽ, để xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng thì trước tiên phải phát hiện được hành vi tham nhũng cũng như tài sản tham nhũng. Ngoài ra, việc phát hiện hành vi tham nhũng còn là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi vi phạm, từ đó áp dụng chế tài tương ứng với hành vi vi phạm pháp luật đó.
Như vậy, có thể hiểu, phát hiện tài sản tham nhũng là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua các biện pháp cụ thể để phát hiện các hành vi tham nhũng nhằm hạn chế kịp thời những thiệt hại xảy ra, xác định mức độ trách nhiệm của người có hành vi vi phạm và áp dụng hình thức xử lý phù hợp với pháp luật.
Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước. Đối với khu vực ngoài nhà nước, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi năm 2020) đã liệt kê 03 hành vi tham nhũng sau: tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ và môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi. Trong khi khu vực nhà nước có đến 12 hành vi tham nhũng thì khu vực ngoài nhà nước chỉ có 03 hành vi tham nhũng(1). Điều này là hợp lý vì với chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng thường là cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì hành vi tham nhũng chủ yếu nằm trong khu vực nhà nước. Theo quy định trên, hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước được thực hiện bởi các chủ thể là người có chức vụ quyền hạn, hoặc cũng có thể là bất kỳ cá nhân nào trong doanh nghiệp, tổ chức trong khu vực ngoài nhà nước.
Thực tế, nếu chỉ có nhóm chủ thể này thì trong một số trường hợp sẽ không đủ điều kiện để cấu thành các tội phạm tham nhũng. Chẳng hạn, hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi. Trong trường hợp này, sự tham gia của người có thẩm quyền, chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước là điều kiện đủ để cấu thành một số tội tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước.
Các hình thức phát hiện tài sản tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nướcTheo quy định tại Điều 82 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi năm 2020), việc phát hiện tài sản tham nhũng, hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức thuộc khu vực ngoài nhà nước được thực hiện thông qua 03 kênh thông tin như sau:
Một là, phát hiện thông qua công tác tự kiểm tra của cơ quan, đơn vị và tổ chức. Nếu như việc phát hiện tham nhũng trong khu vực nhà nước được thực hiện thông qua 02 hình thức (kiểm tra và tự kiểm tra) thì trong khu vực ngoài nhà nước chỉ áp dụng hình thức tự kiểm tra: Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm tự kiểm tra để kịp thời phát hiện, xử lý và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức mình (khoản 1 Điều 82 Luật Phòng, chống tham nhũng).
Luật Phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định người đứng đầu trong tổ chức, đơn vị có trách nhiệm đối với việc tự kiểm tra hoạt động và các vấn đề liên quan để phát hiện hành vi tham nhũng cũng như tài sản tham nhũng trong nội bộ tổ chức, đơn vị mình. Ngoài ra, pháp luật còn giao trách nhiệm kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức mình. Thông thường, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong trường hợp này là người đại diện theo pháp luật của tổ chức, đơn vị đó. Tuy nhiên, quy định này cũng mới dừng lại áp dụng cho tổ chức, đơn vị trong khu vực ngoài nhà nước đối với một số trường hợp được quy định tại Điều 95 của Luật Phòng, chống tham nhũng, gồm: doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện. Đối với các trường hợp tổ chức, đơn vị còn lại (ngoài các trường hợp được quy định tại Điều 95) thì vẫn còn bỏ ngỏ.
Hai là, phát hiện thông qua hoạt động thanh tra. Theo đó, cơ quan thanh tra khi tiến hành hoạt động thanh tra nếu phát hiện có hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thì có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể, theo Nghị định số 59/2019/ NĐ-CP, chủ thể có thẩm quyền thanh tra đối với các đối tượng thanh tra trong nhóm đơn vị, tổ chức được quy định như sau: Thanh tra bộ quản lý lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chính của công ty đại chúng, tổ chức tín dụng; Thanh tra Bộ Nội vụ; thanh tra tỉnh; Thanh tra Chính phủ. Các chủ thể có thẩm quyền thanh tra nêu trên chỉ có quyền tiến hành thanh tra đối với nhóm tổ chức, đơn vị được liệt kê tại Điều 95 Luật Phòng, chống tham nhũng.
Ba là, thông qua việc phản ánh, tố cáo và giải quyết tố cáo về tham nhũng. Theo quy định của Luật Tố cáo năm 2018, người tố cáo phải chịu trách nhiệm đối với nội dung mà mình tố cáo. Nếu người tố cáo cố tình tố cáo sai sự thật thì bị xử lý nghiêm minh. Trường hợp nội dung tố cáo gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Do vậy, khi cá nhân tố cáo về hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng thì phải tố cáo trung thực, đúng với sự thật và phải bảo đảm một số yêu cầu: ghi rõ ngày tháng năm tố cáo hành vi tham nhũng, địa chỉ và cách thức liên hệ với người tố cáo, hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng của người bị tố cáo; các thông tin có liên quan khác như: tài liệu, chứng từ, hình ảnh chứng minh hành vi tham nhũng… Như vậy, hình thức tố cáo được thể hiện bằng văn bản(2).
Người đứng đầu tổ chức, đơn vị khi nhận được thông tin tố cáo hành vi tham nhũng phải xem xét và xử lý thông tin theo thẩm quyền; bảo đảm bí mật thông tin của người tố cáo (trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ); bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo và thực hiện việc khen thưởng nếu người tố cáo trung thực và tích cực cộng tác với cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, tài sản tham nhũng… Hiện nay, Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành chỉ quy định chung chung về việc khen thưởng tại Điều 68 nhưng lại không có quy định cụ thể hướng dẫn về việc khen thưởng đối với người tố cáo có thành tích, người tố cáo trung thực và tích cực cộng tác với cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, tài sản tham nhũng. Do đó, có thể hiểu, việc tổ chức khen thưởng trong trường hợp này sẽ được thực hiện theo pháp luật có liên quan.
Thực trạng phát hiện tài sản tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước
Cùng với thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng vào tháng 02/2013 cũng như trên tinh thần quán triệt quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”(3), công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, tài sản tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Số lượng các vụ việc, vụ án tham nhũng bị phát hiện và xử lý tăng về số lượng trong cả khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Trong giai đoạn 2012 đến 2022, cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra 2.657 vụ với 5.841 bị can phạm tội về tham nhũng; 2.628 vụ với 6.199 bị can bị truy tố và 2.439 vụ với 5.647 bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội tham nhũng. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng khóa XIII đến nay, đã khởi tố và điều tra 455 vụ với 1.054 bị can về các tội tham nhũng(4).
Đối với khu vực ngoài nhà nước, trong những năm gần đây, đã có nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế diễn ra trong nhiều lĩnh vực chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, đấu thầu… bị phát hiện, đã và đang xử lý theo quy định của pháp luật. Có thể liệt kê một số trường hợp sau:
(1) Vụ án tham nhũng diễn ra tại Công ty cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC): Theo đánh giá của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại bản cáo trạng thì đây là một minh họa điển hình cho “lợi ích nhóm”. Theo đó, vì lợi ích vật chất, trong vụ án này có sự cấu kết, thông đồng giữa doanh nghiệp với người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước nhằm tạo kiện để doanh nghiệp trục lợi, gây thiệt hại cho Nhà nước. Hồ sơ vụ án thể hiện, bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (cựu Chủ tịch AIC) đã liên lạc, tiếp xúc với cựu Bí thư Đồng Nai - Trần Đình Thành để được giới thiệu và tiếp xúc với hàng loạt lãnh đạo cao cấp của tỉnh Đồng Nai. Những người này đều được bà Nhàn đưa tiền hối lộ (người ít nhất là 01 tỉ đồng, người nhiều nhất là 14,8 tỉ đồng) để tạo điều kiện trong việc đấu thầu, thông thầu, chi ngoài sổ sách cho lãnh đạo tỉnh Đồng Nai. Kết quả AIC đã trúng 16 gói thầu trái quy định, “nâng khống” giá trị các gói thầu, gây thiệt hại cho Nhà nước hàng trăm tỉ đồng. Thông qua hoạt động điều tra đã phát hiện tài sản tham nhũng; các bị cáo là cựu quan chức tỉnh Đồng Nai nhận hối lộ từ bà Nhàn và AIC đều đã nộp đầy đủ và khắc phục hậu quả(5). Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn 30 năm tù, trong đó 16 năm về tội đưa hối lộ; một số bị cáo khác cũng bị tuyên phạt về tội đưa hối lộ và tội nhận hối lộ.
(2) Đối với vụ án tham nhũng Vạn Thịnh Phát: Để thực hiện hành vi của mình, thông qua ngân hàng SCB, bà Trương Mỹ Lan đã huy động tiền gửi tiết kiệm của người dân. Sau đó, bà Lan đã thành lập hơn 1.000 doanh nghiệp lớn nhỏ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành “hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát”. Ngoài sự hỗ trợ trực tiếp từ cán bộ, nhân viên của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (vốn là những người có quan hệ họ hàng hoặc là những cá nhân được thuê để đứng tên người đại diện theo pháp luật của hơn 1.000 doanh nghiệp), để bà Trương Mỹ Lan thực hiện hành vi tham ô, tham nhũng còn phải kể đến sự tiếp tay, giúp sức của 41 lãnh đạo cán bộ Ngân hàng SCB, 15 cựu cán bộ Ngân hàng Nhà nước; 03 cựu cán bộ Thanh tra Chính phủ; 01 cựu cán bộ Kiểm toán nhà nước. Với mạng lưới hỗ trợ, giúp sức nêu trên, bà Trương Mỹ Lan đã lập khống 916 hồ sơ vay vốn rút tiền, chiếm đoạt của Ngân hàng SCB hơn 304 nghìn tỉ đồng, cùng với tiền lãi phát sinh thì tổng số tiền chiếm đoạt hơn 415.000 tỉ đồng.
Trong quá trình phát hiện, khởi tố, điều tra và truy tố, cơ quan có thẩm quyền đã kê biên, thu hồi tiền và tài sản tham nhũng với nhiều loại tài sản như: 589 tỉ và 15 triệu USD, gần 2.100 tỉ đồng trong 43 tài khoản ngân hàng; 789 tỉ trong tài khoản của Công ty cổ phần Sài Gòn Kim Cương mở tại Ngân hàng SCB; 1.266 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận công trình xây dựng; 269 nhà đất cho thuê, 1.237 bất động sản của các công ty trong “hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát”; 01 du thuyền; 02 tàu; 19 ô tô cùng nhiều tài sản có giá trị khác(6).
(3) Vụ án tham nhũng liên quan đến Tập đoàn Phúc Sơn trong thời gian gần đây. Đây là vụ án hết sức phức tạp, có liên quan đến nhiều đơn vị, địa phương trong cả nước như: tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Phú Thọ, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Quảng Ngãi; với lượng thông tin, tài liệu khá đồ sộ. Tính đến tháng 10/2024, cơ quan điều tra đã khởi tố, bắt tạm giam 26 bị can. Hiện nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đẩy nhanh tiến độ điều tra. Các bị can bị khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về 05 tội danh: vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; nhận hối lộ; lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi; lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn Phúc Sơn, Công ty cổ phần Đầu tư thương mại và bất động sản Thăng Long, tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Phú Thọ và các đơn vị có liên quan.
Mặc dù vụ án này đang được cơ quan điều tra Bộ Công an đẩy nhanh tiến độ nhưng trong giai đoạn đầu, cơ quan điều tra đã khởi tố một số bị can để điều tra, làm rõ hành vi phạm tội. Cùng với đó, việc phát hiện tài sản tham nhũng nhanh chóng được thực hiện và đã thu hồi tài sản trong giai đoạn đầu trên 300 tỉ đồng, gần 02 triệu USD, trên 500 lượng vàng và hơn 1.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất(7).
(4) Mới đây nhất, dư luận đề cập đến vụ án tham nhũng liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thuận An. Theo điều tra ban đầu, từ tháng 12/2014 đến tháng 12/2023, Tập đoàn Thuận An đã trực tiếp hoặc liên doanh trúng 38 gói thầu tại 16 tỉnh, thành phố trên cả nước với tổng giá trị 23.000 tỉ đồng. Theo Bộ Công an, riêng năm 2022, năm 2023, Tập đoàn Thuận An đã trúng nhiều gói thầu trị giá 18.000 tỉ đồng (trong số đó có nhiều gói thầu thuộc chương trình phục hồi phát triển kinh tế sau Covid-19). Cơ quan điều tra Bộ Công an cho rằng đây là “điều rất đặc biệt”. Cũng theo nhận định của cơ quan này, đây là vụ án vi phạm nghiêm trọng quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng với nhiều tội danh đã được khởi tố.
Trong quá trình điều tra, khám xét, phát hiện tài sản tham nhũng, cơ quan có thẩm quyền đã xác định, thu giữ, phong tỏa, áp dụng các biện pháp nhăn chặn cũng như thông qua việc bị can tự nguyện nộp, vận động gia đình khắc phục hậu quả vụ án với số tiền thu giữ là 62 tỉ đồng, 40.000 USD(8).
Ngoài những điển hình nêu trên, còn có nhiều vụ án tham nhũng khác trong khu vực ngoài nhà nước đã, đang bị điều tra, xét xử như: Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, Tân Hoàng Minh… Trong quá trình giải quyết, cơ quan chức năng đã phát hiện, kê biên tài sản, ngăn chặn, phong tỏa tài khoản ngân hàng của các bị can, đối tượng liên quan để thu hồi tài sản tham nhũng. Điển hình trong đại án Việt Á (Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á) đã thu hồi số tiền 1.600 tỉ đồng(9)…
Qua việc tổng hợp nêu trên cho thấy, việc phát hiện hành vi tham nhũng, tài sản tham nhũng được chú trọng thực hiện với nhiều kết quả khả quan. Trong khu vực ngoài nhà nước, có nhiều tội danh được áp dụng đối với cá nhân không nắm giữ chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước. Điển hình là vụ án của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát. Theo đó, người đứng đầu Tập đoàn Vạn Thịnh Phát - bà Trương Mỹ Lan bị truy tố các tội danh: đưa hối lộ, tham ô tài sản và vi phạm hoạt động của ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Lần đầu tiên, tội tham ô tài sản được truy cứu đối với một lãnh đạo doanh nghiệp trong khu vực ngoài nhà nước. Bởi lẽ, theo Điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì tội tham ô chỉ cấu thành đối với chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn đang công tác tại cơ quan, tổ chức của Nhà nước. Tuy nhiên, Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung quy định “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động phát hiện tham nhũng, tài sản tham nhũng cũng gặp những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước. Việc chứng minh hành vi phạm tội tham nhũng thường khó khăn hơn so các loại tội phạm khác. Cùng với sự khó khăn đó là việc chứng minh tiền và tài sản tham nhũng. Chính vì vậy, số lượng vụ án tham nhũng bị phát hiện, xử lý chưa tương xứng với tình hình tội phạm tham nhũng đã xảy ra trong thực tế. Đó là chưa kể, tiền và tài sản tham nhũng được các đối tượng sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, như: trong vụ AIC thì bị can Trần Đình Thành khai nhận rằng: phần lớn số tiền có được từ việc nhận hối lộ đã được bị can đưa cho vợ để vợ gửi tiết kiệm và đầu tư bất động sản. Hay, bị can Đinh Quốc Thái trong cùng vụ án AIC khai rằng vợ của bị can đã dùng số tiền nhận hối lộ từ chồng để đóng tiền học phí cho 02 con đang du học bên Mỹ(10)… Mặt khác, hành vi tham nhũng được thực hiện trên nhiều lĩnh vực như: tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng, đấu thầu… với những thủ đoạn tinh vi, có sự thông đồng, móc nối giữa cán bộ, công chức với đối tượng bên ngoài… cũng là một trong những trở ngại làm giảm hiệu quả phát hiện tài sản tham nhũng. Thêm nữa, một số quy định pháp luật liên quan chưa phát huy hết hiệu quả như quy định về cơ chế khuyến khích, bảo vệ người tố giác, tin báo về tội phạm tham nhũng chưa thực sự hữu hiệu, việc khen thưởng còn mang tính hình thức…
Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan đến phát hiện tài sản tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nướcMột là, quy định về trách nhiệm người đứng đầu trong hoạt động tự kiểm tra tại tổ chức, đơn vị trong khu vực ngoài nhà nước.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về phòng chống tham nhũng hiện hành có quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức, đơn vị trong hoạt động phòng chống tham nhũng. Thông qua hoạt động tự kiểm tra, nếu phát hiện hành vi tham nhũng, những người này phải kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để xử lý. Mặc dù vậy, quy định này cũng mới chỉ áp dụng cho tổ chức, đơn vị trong khu vực ngoài nhà nước đối với một số trường hợp được quy định tại Điều 95 Luật Phòng, chống tham nhũng. Đối với các trường hợp còn lại trong khu vực ngoài nhà nước thì chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm này. Nói cách khác, ai sẽ là người có trách nhiệm kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để xử lý hành vi này tại đơn vị, tổ chức trong khu vực ngoài nhà nước còn lại? Hoặc nếu họ không báo thì có chịu chế tài, trách nhiệm pháp lý gì không? Chính vì vậy, cần bổ sung quy định cụ thể về người đứng đầu áp dụng đối với những trường hợp còn lại (ngoài những trường hợp ở Điều 95) trong khu vực ngoài nhà nước. Trước tiên, cần xác định trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật hoặc người giữ chức danh quản lý trong đơn vị, tổ chức. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, xem xét đến trường hợp doanh nghiệp có nhiều hơn 01 người đại diện theo pháp luật. Trong đó, cũng có thể xảy ra trường hợp: theo điều lệ công ty thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là người không giữ chức danh giám đốc, tổng giám đốc hoặc chủ tịch hội đồng quản trị hoặc chủ tịch hội đồng thành viên. Do vậy, để có cách hiểu thống nhất và có thể áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước thì nên có văn bản hướng dẫn đối với nghĩa vụ kiến nghị đối với những trường hợp được quy định ngoài Điều 95 Luật Phòng, chống tham nhũng.
Hai là, liên quan đến quy định về hình thức tố cáo hành vi tham nhũng. Một trong những kênh thông tin có thể sử dụng để phát hiện hành vi tham nhũng, tài sản tham nhũng là thông qua hoạt động tố cáo của cá nhân. Để thực hiện quyền tố cáo nói chung, tố cáo hành vi tham nhũng nói riêng, công dân có thể tố cáo thông qua đơn bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Trên thực tế và trong xu hướng phát triển hiện nay, có thể phát sinh trường hợp một cá nhân sử dụng email (thư điện tử) của cá nhân mình để tối cáo hành vi tham ô, tham nhũng của một hoặc nhiều cá nhân với đầy đủ thông tin cơ bản mà pháp luật quy định thì email đó có được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp nhận và xử lý thông tin theo quy định của pháp luật về tố cáo không? Nếu căn cứ vào Điều 22 Luật Tố cáo năm 2018(11) thì thư điện tử này sẽ không được xác định là “đơn” vì bản chất nó tồn tại dưới dạng thông điệp dữ liệu điện tử.
Mặc dù vậy, thiết nghĩ, trong trường hợp này nội dung tố cáo nếu bảo đảm các yêu cầu về nội dung tố cáo, có đủ cơ sở, thông tin để liên hệ, xác định được người gửi email tố cáo thì email tố cáo đó nên được chấp nhận (không nhất thiết phải thể hiện dưới dạng thức văn bản giấy). Mặt khác, pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận giá trị pháp lý như văn bản của thư điện tử tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Điều này cũng phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử năm 2023. Chính vì vậy, để có thể phù hợp với quy định của pháp luật về tố cáo hiện hành cũng như phù hợp với xu thế phát triển thì nên chăng cần sửa đổi quy định về hình thức tố cáo. Theo đó, Điều 22 Luật Tố cáo năm 2018 nên được sửa đổi như sau: “Việc tố cáo được thực hiện bằng văn bản hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”.
Ba là, liên quan đến quy định về vấn đề khen thưởng trong công tác tố cáo của cá nhân khi phát hiện có hành vi tham nhũng. Có thể khẳng định, khi thực hiện tố cáo hành vi tham nhũng thì người tố cáo đã mất nhiều thời gian, công sức, thậm chí là tài chính. Đó là chưa kể đến việc bản thân họ phải đối mặt với những nguy hiểm từ hành động dũng cảm của mình. Do đó, việc khen thưởng đối với người tố cáo trung thực, tích cực hợp tác với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là rất cần thiết và phải phù hợp cả về vật chất lẫn tinh thần.
Trong khi đó, Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành chỉ quy định chung về việc người có thành tích trong việc phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Tương tự, Điều 62 Luật Tố cáo chỉ quy định ngắn gọn “Người tố cáo trung thực, tích cực cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm pháp luật thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật”. Bên cạnh đó, Nghị định số 31/2019/NĐ-CP hướng dẫn Luật Tố cáo cũng hoàn toàn không đề cập đến vấn đề khen thưởng người tố cáo hành vi tham nhũng.
Với các quy định chung chung như trên, thì có thể hiểu, khi tiến hành khen thưởng đối với cá nhân mạnh dạn tố cáo hành vi tham nhũng đúng, trung thực, có thể căn cứ vào Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Theo đó, có 07 hình thức khen thưởng như: Huân chương, Huy chương, Danh hiệu vinh dự nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, Kỷ niệm chương, Bằng khen, Giấy khen. Tuy nhiên, đối với trường hợp cá nhân tố cáo hành vi tham nhũng trung thực và phối hợp tích cực với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thì chỉ có thể được khen thưởng dưới hình thức Giấy khen vì tiêu chí của Giấy khen đơn giản hơn nhiều so với các hình thức khen thưởng khác (hay trường hợp này cũng không đáp ứng đủ các điều kiện, tiêu chí để nhận các hình thức khen thưởng khác). Mặc dù vậy, có thể thấy Giấy khen không có tác dụng khuyến khích cá nhân dũng cảm tố cáo hành vi tham nhũng. Đó là chưa kể đến việc số tiền mà cá nhân được nhận khi được khen thưởng dưới hình thức Giấy khen khá thấp (chỉ bằng 0,15-0,3 lần lương cơ sở)(12).
Như vậy, mức tiền thưởng nhận kèm Giấy khen mà cá nhân tố cáo hành vi tham nhũng tối đa được nhận là 702.000 đồng(13). Có thể nhận thấy, số tiền thưởng mà người tố cáo hành vi tham nhũng được nhận này là không tương xứng, nếu như không muốn nói là quá thấp so với công sức bỏ ra cũng như nguy hiểm mà họ có thể gặp phải. Chính vì lẽ đó, cơ quan có thẩm quyền cần có quy định bổ sung về vấn đề khen thưởng đối với cá nhân tố cáo hành vi tham nhũng theo hướng nâng mức thưởng về vật chất để khuyến khích hành động mạnh dạn, dũng cảm tố cáo chủ thể có hành vi tham nhũng.
Tóm lại, thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua đã phần nào cho thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc xử lý các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước. Đây là việc làm cần thiết, quan trọng, tất yếu, thành xu thế không thể đảo ngược đối với sự phát triển phồn thịnh của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 7), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
4. Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2023.
5. https://congan.com.vn/tin-chinh/bo-cong-an-thong-tin-ve-cac-vu-an-lien-quan-cac-tap-doan-thuan- an-phuc-son-va-van-thinh-phat_165954.html
6. https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/bai-1-nhan-dien-che-dinh-thu-hoi-tai-san-tham- nhung-615880.html
7. https://cand.com.vn/Vu-an-noi-tieng/dai-an-van-thinh-phat-loi-canh-tinh-toi-nhung-can-bo-tham- nhung-i714578/
8. https://phaply.net.vn/cong-tac-kiem-soat-quyen-luc-hoan-thien-chinh-sach-phap-luat-thu-hoi-tai- san-tham-nhung-nhin-tu-vu-cty-aic-va-benh-vien-da-khoa-dong-nai-a256127.htm
9. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thong-tin-moi-ve-dai-an-tap-doan-thuan-an-phuc-son-van- thinh-phat-scb-119240814171110183.htm
10. https://vov.vn/chinh-tri/vu-an-xay-ra-tai-cong-ty-aic-la-mot-dien-hinh-dau-xot-ve-loi-ich-nhom- post994713.vov.
(*) Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 7), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.362.
(1) Xem Điều 22 Luật Tố cáo năm 2018 (sửa đổi năm 2020).
(2) Xem Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi năm 2020).
(3) Phát biểu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng ngày 12/12/2020.
(4) Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2023, tr.27.
(5) https://vov.vn/chinh-tri/vu-an-xay-ra-tai-cong-ty-aic-la-mot-dien-hinh-dau-xot-ve-loi-ich-nhom-post994713.vov, ngày 12/11/2024.
(6) https://cand.com.vn/Vu-an-noi-tieng/dai-an-van-thinh-phat-loi-canh-tinh-toi-nhung-can-bo-tham-nhung-i714578/, ngày 12/11/2024.
(7) https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thong-tin-moi-ve-dai-an-tap-doan-thuan-an-phuc-son-van-thinh-phat- scb-119240814171110183.htm , ngày 11/11/2024.
(8) https://congan.com.vn/tin-chinh/bo-cong-an-thong-tin-ve-cac-vu-an-lien-quan-cac-tap-doan-thuan-an-phuc-son-va-van- thinh-phat_165954.html, ngày 13/11/2024.
(9) https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/bai-1-nhan-dien-che-dinh-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-615880.html, ngày 11/11/2024.
(10)https://phaply.net.vn/cong-tac-kiem-soat-quyen-luc-hoan-thien-chinh-sach-phap-luat-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-nhin-tu-vu-cty-aic-va-benh-vien-da-khoa-dong-nai-a256127.html, ngày 12/11/2024.
(11) Điều 22 Luật Tố cáo năm 2018: Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
(12) Xem điểm e khoản 1 Điều 58 Nghị định số 98/2023/NĐ-CP ngày 31/12/2023 quy định chi tiết một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022.
(13) Xem khoản 2 Điều 3 Nghị định số 73/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.