Quy định của pháp luật
Theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì:
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý;
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.[1]
Khó khăn, vướng mắc
Mặc dù pháp luật quy định khá chi tiết nội dung này tuy nhiên vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc nhất định giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật.
Nội dung vụ án: Khoảng ngày 23 giờ 00’ ngày 05/8/2022, bị can L.Q.T. đi đến cổng Cơ quan huyện Y., thấy cổng khóa, xung quanh không có người. T. trèo tường rào, nhảy vào bên trong khuôn viên Cơ quan huyện Y. và đi lên tầng 2 vào phòng ông D... Tại đây, T. tìm kiếm tài sản thì phát hiện bên trong túi áo có một tệp tiền mệnh giá 500.000 đồng với tổng số tiền là 29.000.000 đồng.
Sau khi phát hiện mất tài sản, ông D. đã làm đơn trình báo gửi Cơ quan CSĐT Công an huyện Y. Qua xem xét camera an ninh của Cơ quan huyện Y. và công tác nắm địa bàn, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Y. triệu tập T. đến làm việc, qua đấu tranh bị can T. đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hậu quả: ông D. bị mất trộm 29.000.000 đồng.
Ngày 21/10/2022, L.Q.T. bị Viện Kiểm sát (VKS) huyện Y. truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.
Về nhân thân bị can theo hồ sơ vụ án: Bị can L.Q.T. có 04 lần bị Tòa án xét xử, trong đó có 03 lần về tội “Trộm cắp tài sản”, 01 lần về tội “Cố ý gây thương tích” cụ thể:
- Bản án số 25/2007/HSST ngày 18/9/2007 của TAND huyện Y. tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, đã bồi thường xong. Lúc phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi.
- Bản án số 26/2009/HSST ngày 25/9/2009 của TAND huyện Y. tuyên phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48 (tái phạm) BLHS năm 1999. Hiện nay, chưa bồi thường cho các bị hại và các bị hại tiếp tục yêu cầu được bồi thường.
- Bản án ngày 30/12/2009 của TAND huyện Y. tuyên phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm g khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Tổng hợp hai bản án, bị can phải chịu 03 năm 06 tháng tù, được trừ đi thời hạn bị tạm giam của bản án ngày 25/9/2009. Bị can đã chấp hành xong hình phạt tù của cả hai bản án trên vào ngày 27/12/2012, nộp án phí của cả hai bản án ngày 27/5/2011.
- Bản án số 21/2019/HSST ngày 25/4/2019, TAND TP. X. tuyên phạt 18 tháng tù tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Bị can T. chưa bồi thường cho bị hại.
Quá trình giải quyết vụ án còn có các ý kiến khác nhau, cụ thể:
Ý kiến thứ nhất cho rằng: Bị can L.Q.T. phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS, với các lý do:
Thứ nhất: Ngày 12/5/2007, bị can L.Q.T. thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” (lần 1), khi đó bị can T. chưa đủ 18 tuổi và bị tuyên phạt 12 tháng tù theo Bản án số 25/2007/HSST ngày 18/9/2007. Ngày 26/6/2009, bị can L.Q.T. tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” (lần 2) khi chưa được xoá án tích (lần 1). Vì vậy, Bản án số 26/2009/HSST ngày 25/9/2009 áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 là đúng các quy định của BLHS năm 1999. Tuy nhiên, ngày 01/01/2018 BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật, tại điểm b khoản 1 Điều 107 BLHS năm 2015 có quy định mới có lợi cho bị can T. Do đó, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 thì bị can L.Q.T. đã được xoá án tích khi chấp hành xong toàn bộ bản án số 25/2007/HSST ngày 18/9/2007. Vì vậy, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” tại Bản án số 26/2009/HSST ngày 25/9/2009 để xác định tình tiết “tái phạm nguy hiểm” tại lần phạm tội “Trộm cắp tài sản” tiếp theo.
Thứ hai: Bản án số 26/2009/HSST ngày 25/9/2009, bị can L.Q.T. chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự của bản án, đến ngày 13/11/2018, bị can L.Q.T. tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” vì vậy phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” đối với bị can T. Tuy nhiên, tại Bản án số 21/2019/HSST ngày 25/4/2019, TAND TP. X nhận định là hết thời hiệu thi hành phần bồi thường của Bản án số 26/2009/HSST ngày 25/9/2009 nên bị can L.Q.T. đã được xoá án tích. Vì vậy, Bản án số 21/2019/HSST ngày 25/4/2019 không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” đối với bị can T.
Thứ ba: Ngày 05/8/2022, bị can L.Q.T. tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên, Bản án số 21/2019/HSST ngày 25/4/2019 của TAND TP. X. không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” đối với bị can T. và đang có hiệu lực, đã được thi hành và áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, không tính lại nên không áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” đối với bị can T.
Vì vậy, VKS huyện Y. truy tố bị can T. phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”.
Ý kiến thứ hai cho rằng: Bị can L.Q.T. phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS, quan điểm của tác giả đồng tình với ý kiến này, với các lý do:
Tại Điều 70 của BLHS 2015 quy định về các điều kiện đương nhiên được xóa án tích, trong đó có điều kiện: Người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, BLHS không quy định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp xong hành hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Hơn nữa, pháp luật thi hành án dân sự quy định nhiều phương thức thi hành để người phải thi hành án có quyền lựa chọn, như: Tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án hoặc nhờ thân nhân nộp thay.
Mặt khác, theo hướng dẫn tại mục 7, phần I của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 13/4/2019 của TAND Tối cao thì trách nhiệm chấp hành hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án là trách nhiệm của người bị kết án, nên không thể lấy lý do chưa nhận được thông báo, quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự nên chưa bồi thường. Trong trường hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích, căn cứ vào Điều 53 BLHS năm 2015 thì bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm [2].
Do vậy, trường hợp người bị kết án (sau này là bị can, bị cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự nên chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án là chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trong trường hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 BLHS.
Từ vụ án nêu trên cần thống nhất áp dụng pháp luật như sau
Một là: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội mới, bị cáo đã bị Tòa án xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS là tái phạm; chưa bồi thường thiệt hại cho các bị hại hoặc chưa chấp hành các quyết định khác của bản án, nhưng đến khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự (thời hạn đã quá 05 năm từ ngày bản án đã có hiệu lực pháp luật) mà bên có quyền yêu cầu thi hành án không yêu cầu thi hành án thì vẫn coi là chưa chấp hành xong bản án. Do đó, không được coi là đã xoá án tích.
Hai là: Bị cáo đã bị Tòa án xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS là tái phạm, chưa bồi thường thiệt hại cho các bị hại hoặc chưa chấp hành các quyết định khác của bản án, khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tiếp theo đã bị Toà án khác xét xử không xác định tình tiết tăng nặng TNHS tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm trước khi bị cáo phạm tội mới thì vẫn xác định bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Ba là: Công văn 64/TANDTC-PC đây mới là hướng dẫn giải đáp của ngành TAND không phải văn bản quy phạm pháp luật, trong thời gian tới các cơ quan liên ngành trung ương cần có văn bản hướng dẫn chung cho các cơ quan tiến hành tố tụng về vấn đề này, để thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luât.
Trên đây, là quan điểm cá nhân của bản thân tác giả trong quá trình nghiên cứu và áp dụng, mong nhận được ý kiến của quý đồng nghiệp và bạn đọc.
[1] Điều 53 BLHS năm 2015.
[2] mục 7, phần I , Công văn 64/TANDTC-PC.