1. Mở rộng quyền lực mềm bằng hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số của các cường quốc trên thế giới
Quyền lực mềm là khả năng của một quốc gia trong việc tạo ảnh hưởng đến quốc gia khác dựa trên sự hấp dẫn của các giá trị chính trị, văn hóa và chính sách đối ngoại, không thông qua vũ lực, đe dọa hoặc mua chuộc. Để làm rõ hơn về định nghĩa quyền lực mềm, Joseph Nye, người từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Chính phủ Kennedy (Harvard Kennedy School) đã khái quát thành định nghĩa như sau: “Quyền lực mềm là một loại năng lực, có thể giúp đạt được mục đích thông qua sức hấp dẫn chứ không phải ép bức hoặc dụ dỗ. Sức hấp dẫn này đến từ quan điểm giá trị về văn hoá, chính trị và chính sách ngoại giao của một nước".
Có thể thấy quyền lực mềm chỉ là một phần của sức ảnh hưởng (ngoài quyền lực mềm, sức ảnh hưởng còn có thể được tạo ra bằng quyền lực cứng), không chỉ là sự thuyết phục, mà quyền lực mềm là khả năng lôi cuốn và hấp dẫn khiến người khác tự nguyện quy thuận và đi theo. Hội nghị Thượng đỉnh Quyền lực Mềm Toàn cầu lần thứ 6, do Brand Finance tổ chức tại London vào tháng 2 năm 2025, đã có thống kê xếp hạng về quyền lực mềm toàn cầu. Theo đó, Mỹ đứng đầu trong danh sách, tiếp theo lần lượt là Trung Quốc, Vương quốc Anh, Nhật, Đức, Pháp, Canada, Thuỵ Sĩ, Ý, Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất. Trong hàng trăm năm qua các quốc gia trên thế giới đã và đang sử dụng hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị như một cách hiệu quả để gia tăng quyền lực về chính trị.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet.
Trường hợp Mỹ, Mỹ đưa ra các ưu tiên trong việc tăng cường quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số. Sự trỗi dậy của Internet đã thay đổi căn bản các công cụ chính của quyền lực mềm, đặc biệt là ngoại giao văn hóa, trao đổi giáo dục và ngoại giao công chúng. Mỹ đã sử dụng hiệu quả các công nghệ kỹ thuật số để quảng bá các nguyên tắc của mình, thu hút khán giả trên toàn thế giới thông qua các nền tảng mạng xã hội bao gồm X, YouTube và Instagram. Thêm vào đó, sử dụng giáo dục như một công cụ quyền lực mềm đang ngày càng được chấp nhận rộng rãi hơn. Các chương trình trao đổi và hợp tác học thuật quốc tế đã phát triển thành các công cụ hiệu quả cho sự tham gia ngoại giao, cho phép các quốc gia thay đổi nhận thức của nước ngoài về lý tưởng chính trị và văn hóa. Mặc dù công nghệ kỹ thuật số đã mang lại nhiều bước tiến quan trọng, nhưng các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng vẫn còn nhiều tranh luận về mức độ hiệu quả của công nghệ này đối với việc mở rộng quyền lực mềm. Theo Gautama và cộng sự (2024), dù các hoạt động như ngoại giao giáo dục có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực, song hiệu quả của chúng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là bối cảnh chính trị và quan hệ song phương giữa quốc gia gửi và quốc gia tiếp nhận. Điều này cho thấy cần có một cách tiếp cận sâu sắc và linh hoạt hơn để hiểu rõ cách thức các công cụ quyền lực mềm hiện đại vận hành trong thực tế, nhất là trong bối cảnh xã hội đang ngày càng số hóa và toàn cầu hóa mạnh mẽ.
Trường hợp Trung Quốc, đã đầu tư nguồn kinh phí lớn và không ngừng gây ảnh hưởng. Thứ nhất,Trung Quốc tăng khoản đầu tư vào các hãng tin tiếng nước ngoài để thiết lập quyền kiểm soát tốt hơn đối với các bài tường thuật về Trung Quốc. Tân Hoa xã, cơ quan thông tấn chính thức của chính phủ Trung Quốc, đã phát triển 170 văn phòng ở nước ngoài và có kế hoạch đạt 200 văn phòng vào năm 2020. Hai tờ báo China Daily và Global Times được xuất bản bằng tiếng Anh và phát hành trên toàn thế giới. Đài truyền hình CCTV với các nhóm phóng viên thường trú ở hơn 70 quốc gia. Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc phát sóng 392 giờ chương trình mỗi ngày bằng 38 ngôn ngữ, có 27 văn phòng đại diện ở nước ngoài. Thứ hai,trong thời kỳ công nghệ số, đối với nhiều nước đang phát triển, việc hợp tác với Trung Quốc thông qua các sáng kiến như Con đường Tơ lụa Kỹ thuật số của Huawei đồng nghĩa với việc tiếp cận được cơ sở hạ tầng kỹ thuật số thiết yếu - chẳng hạn như trung tâm dữ liệu và hệ thống viễn thông - đồng thời hưởng lợi từ các dự án như ở Kenya, nơi Huawei đã nâng cao năng lực Công nghệ Thông tin và Năng lực và cung cấp các chương trình đào tạo tại địa phương, giúp các kỹ sư có thể tự quản lý và bảo trì các hệ thống này. Khi các quốc gia này tận dụng tương lai kỹ thuật số dựa trên hệ thống của Trung Quốc, họ cũng nhận thấy mình ngày càng phụ thuộc vào Bắc Kinh về công nghệ quan trọng.
Trường hợp Liên minh châu Âu (EU). EU đã và đang chi hơn 500 triệu bảng mỗi năm để truyền thông cho chính mình trong bối cảnh ngày càng tăng những tin tức tiêu cực xung quanh việc EU có “tác động” đối với kết quả trưng cầu dân ý của Anh. Phân tích của Business for England, chiến dịch Eurosceptic, cho thấy EU đã xuất bản hàng ngàn ấn phẩm, video và thực hiện chiến dịch truyền thông để quảng bá các giá trị của mình, kể cả hàng nghìn ấn phẩm như phim hoạt hình, sách tô màu và các tài liệu giáo dục khác nhằm quảng bá các giá trị EU cho trẻ em. Chi phí cho các loại ấn phẩm này không hề nhỏ, chẳng hạn 7,7 triệu bảng cho các loại ấn phẩm "nâng cao nhận thức cộng đồng về chính sách nông nghiệp chung", 16 triệu bảng cho các loại ấn phẩm "thúc đẩy quyền công dân châu Âu”, 6,8 triệu bảng cho một bảo tàng gọi là" Ngôi nhà lịch sử châu Âu".
Trường hợp châu Á, quốc gia cũng có vị trí cao sau Trung Quốc hiện tại là Nhật Bản. Thành công ban đầu của bộ truyện tranh, anime và manga đã trở thành chìa khóa để định hình các chiến lược quyền lực mềm hiệu quả hơn của Nhật Bản. Nhật Bản không chỉ là một quốc gia phát triển cao và công nghệ hàng đầu, mà còn là một cường quốc văn hóa và sáng tạo. Đổi lại, ba động lực đã được xác định là động lực thúc đẩy việc thực hiện chiến lược New Cool Japan: tìm kiếm lợi ích kinh tế và xây dựng hình ảnh tích cực trong mắt cộng đồng thế giới, cũng như cạnh tranh khu vực để hiện thực hóa hiệu quả nhất tiềm năng của sức mạnh mềm. Hơn nữa, tại Liên hoan phim hoạt hình quốc tế Annecy (Pháp) năm 2024, các nhà sáng tạo dự án hoạt hình đã ghi nhận sự phổ biến ngày càng tăng của anime trên toàn thế giới. Theo người đứng đầu dịch vụ phát trực tuyến anime Crunchyroll, hiện có khoảng 800 triệu người dùng tích cực của thể loại này trên toàn thế giới. Đồng thời, ngành công nghiệp anime đã phát triển nhanh chóng trong vài năm trở lại đây: theo dự báo sơ bộ, vào năm 2025, doanh thu anime sẽ đạt 37 tỷ đô la, so với 14 tỷ đô la một thập kỷ trước.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, trong thời đại toàn cầu hóa và chuyển đổi số, quyền lực mềm đã trở thành công cụ chiến lược để các quốc gia khẳng định vị thế và mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế. Dù bằng những con đường khác nhau, như xuất bản sách lý luận, đầu tư vào truyền thông toàn cầu, phát triển công nghiệp sáng tạo hay quảng bá văn hóa đại chúng, các nước như Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Nhật Bản đều cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp giữa giá trị tư tưởng, văn hóa và công nghệ trong việc gây dựng sức hấp dẫn quốc gia. Đối với Việt Nam, đây là kinh nghiệm quý báu để phát triển chiến lược quyền lực mềm phù hợp với đặc thù văn hóa, chính trị của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất bản sách lý luận, chính trị. Nếu tận dụng công nghệ số, không ngừng nâng cao chất lượng xuất bản sách lý luận chính trị và đẩy mạnh truyền thông quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể biến tri thức, tư tưởng và bản sắc dân tộc thành nguồn sức mạnh mềm bền vững, góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu.
2. Những yếu tố tác động đến sự mở rộng quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số tại Việt Nam
Theo báo cáo Chỉ số Sức mạnh mềm toàn cầu vừa được công bố năm 2025, Việt Nam đã tăng một bậc trên bảng xếp hạng, lên vị trí 52 trong số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá. Tuy nhiên, so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan (hạng 39), Indonesia (hạng 45) và đặc biệt là Singapore (hạng 20), Việt Nam vẫn còn một khoảng cách đáng kể. Những hoạt động ngoại giao, việc mở rộng quan hệ đối tác chiến lược và tổ chức các sự kiện quốc tế quy mô như APEC, ASEAN… đã góp phần nâng cao mức độ nhận biết về Việt Nam. Sự tham gia tích cực tại Liên hợp quốc, bao gồm Lực lượng gìn giữ hòa bình và vai trò trong Hội đồng Bảo an, đã củng cố thêm uy tín của quốc gia. Như vậy, để mở rộng quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị trong thời kỳ công nghệ số, Việt Nam cần nhìn nhận đây không chỉ là một lĩnh vực mang tính tuyên truyền hay học thuật đơn thuần, mà là một công cụ văn hóa, tư tưởng có sức lan tỏa và thuyết phục trong kỷ nguyên toàn cầu hóa thông tin.
Trước hết, yếu tố công nghệ số đóng vai trò then chốt trong việc hiện đại hóa hoạt động xuất bản. Việc ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, nền tảng xuất bản số và mạng xã hội giúp các ấn phẩm lý luận – chính trị tiếp cận độc giả rộng rãi, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các nhà xuất bản cần chuyển mạnh sang sách điện tử (ebook), audiobook, và nền tảng học liệu mở, đồng thời phát triển các kênh truyền thông trực tuyến như podcast, video ngắn, hay diễn đàn học thuật số để chuyển tải nội dung tư tưởng chính trị một cách sinh động, gần gũi và hấp dẫn hơn với giới trẻ.
Thứ hai, cần chú trọng chất lượng và tính thuyết phục của nội dung. Trong bối cảnh cạnh tranh thông tin toàn cầu, quyền lực mềm không đến từ việc lặp lại thông điệp cứng nhắc mà từ giá trị tư tưởng có sức lan tỏa, mang tinh thần nhân văn và phản ánh bản sắc Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm lý luận chính trị cần được viết và truyền tải bằng ngôn ngữ hiện đại, có khả năng đối thoại quốc tế, đồng thời gắn liền với các vấn đề toàn cầu như phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo, công bằng xã hội hay chuyển đổi số.
Thứ ba, yếu tố dịch thuật và truyền thông quốc tế cũng có vai trò quan trọng. Việc đưa các tác phẩm lý luận chính trị tiêu biểu của Việt Nam ra nước ngoài, qua các bản dịch có chất lượng, được phát hành trên các nền tảng quốc tế (như Amazon, Google Books, JSTOR...) sẽ giúp thế giới hiểu hơn về tư tưởng, đường lối và triết lý phát triển của Việt Nam. Song song với đó, cần có chiến lược hợp tác giữa các cơ quan xuất bản, học viện, cơ quan ngoại giao và truyền thông để bảo đảm sự lan tỏa nhất quán và hiệu quả.
Thứ tư, yếu tố pháp lý quốc tế liên quan trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số khi phát hành ra nước ngoài. Việt Nam cần xây dựng khung pháp lý rõ ràng về bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ và trách nhiệm xuất bản quốc tế. Các nhà xuất bản khi phát hành sách ra nước ngoài phải tuân thủ các công ước quốc tế về xuất bản và sở hữu trí tuệ, đặc biệt là Công ước Berne (1886) và Hiệp định TRIPS (1994), nhằm bảo đảm quyền lợi của tác giả, đồng thời tránh các tranh chấp pháp lý khi xuất bản xuyên biên giới.
Cuối cùng, trong thời đại công nghệ số, yếu tố con người làm nội dung (content creator) và truyền thông đa phương tiện trở thành cầu nối thiết yếu giữa tư tưởng và công chúng. Khi các nhà xuất bản xuất bản sách lý luận chính trị và được các nhà nghiên cứu, giảng viên, chuyên gia trẻ chuyển tải tư tưởng chính trị từ sách lý luận chính trị qua các hình thức mới – truyền thông đa phương tiện... thì quyền lực mềm Việt Nam sẽ không chỉ lan tỏa trong phạm vi học thuật mà còn thấm dần vào nhận thức xã hội, hình thành một “thương hiệu tư tưởng Việt Nam” trên trường quốc tế.
Tóm lại, trong thời kỳ công nghệ số, mở rộng quyền lực mềm thông qua xuất bản sách lý luận chính trị không chỉ là đổi mới về phương thức xuất bản, mà còn là đổi mới tư duy truyền thông, sáng tạo nội dung và hội nhập quốc tế - hướng tới mục tiêu đưa tri thức, tư tưởng và giá trị Việt Nam trở thành một phần của đối thoại toàn cầu.
3. Giải pháp mở rộng quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số tại Việt Nam
Thứ nhất, nâng cao tư duy và nhận thức về quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số.
Kể từ năm 1986 đến nay, gần 40 đổi mới đã chứng minh sức sống bền bỉ của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như dự thảo Báo cáo tổng kết của Ban Chấp hành Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII công bố lấy ý kiến vào tháng 09/2024, đã khẳng định: một trong những thành tựu lớn nhất của Đảng ta trong giai đoạn đổi mới là đổi mới tư duy lý luận, hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trên tinh thần đó, hoạt động xuất bản lý luận, chính trị giữ vai trò đặc biệt trong việc chuyển tải, phổ biến và lan tỏa các giá trị tư tưởng, lý luận của Đảng tới cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây cũng chính là một kênh mở rộng quyền lực mềm của Việt Nam, góp phần củng cố nền tảng tư tưởng, tạo đồng thuận xã hội, và nâng cao vị thế, hình ảnh quốc gia trong thời đại số.
Để đáp ứng yêu cầu mới, đội ngũ làm công tác xuất bản lý luận chính trị cần được nâng cao năng lực toàn diện, trước hết là năng lực tư duy lý luận và năng lực số. Đổi mới tư duy ở đây không chỉ là đổi mới nội dung học thuật, mà còn là đổi mới cách tiếp cận, cách truyền đạt và cách lan tỏa tư tưởng trên các nền tảng công nghệ hiện đại. Mỗi biên tập viên, người xuất bản, tác giả không chỉ là “người gác cổng tư tưởng”, mà còn là “người kiến tạo quyền lực mềm”, biết sử dụng công nghệ để gia tăng sức hấp dẫn, tính thuyết phục và khả năng tiếp cận của sách lý luận chính trị đến các tầng lớp công chúng, đặc biệt là giới trẻ trong không gian mạng.
Thứ hai, tăng cường cơ chế, chính sách, quy định nhằm đảm bảo sử dụng đúng quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số.
Tại Mỹ, nếu là một nhân viên Liên bang, phần lớn giao tiếp nội bộ và bên ngoài của đội ngũ đều diễn ra dưới dạng văn bản (email, bản ghi nhớ, báo cáo, tóm tắt và thông báo), do đó, không có gì ngạc nhiên khi việc cải thiện kỹ năng viết và giao tiếp là một cách tuyệt vời để thăng tiến sự nghiệp trong Chính phủ Liên bang. Với việc thông qua Đạo luật Viết Rõ Ràng (Public Law 111 - 274 - Plain Writing Act of 2010), các cơ quan Liên bang được yêu cầu phải sử dụng phương thức truyền đạt rõ ràng, dễ hiểu để công chúng có thể dễ dàng hiểu và sử dụng. Điều này có nghĩa là nếu bạn làm việc cho Chính phủ Liên bang mà không thể viết rõ ràng, súc tích và dễ hiểu, thì bạn sẽ thể phát triển sự nghiệp và không đáp ứng các tiêu chuẩn hiện hành mà cơ quan phải tuân thủ.
Điều này không chỉ gây khó khăn cho đội ngũ về mặt chuyên môn, mà với tư cách là một công chức, điều này còn có nghĩa là người dân Mỹ có nguy cơ không thể hiểu được các quy định, văn bản và tài liệu.. Mỗi từ bạn viết ra, bất kể định dạng hay đối tượng độc giả nào, đều đang tạo nên sự khác biệt cho đất nước, chính vì vậy đội ngũ luôn nhận thức rất rõ trách nhiệm của mình. Do đó, là một cán bộ phải mang thêm trách nhiệm hỗ trợ cho những “người gác cổng tư tưởng” bằng việc chuyển tải tư tưởng lý luận chính trị thông qua sách lý luận chính trị cho người dân.
Từ kinh nghiệm đó, kiến nghị Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý nội dung xuất bản trong môi trường số, bảo đảm sự thống nhất giữa tính tư tưởng, chính trị và tính sáng tạo, nhân văn của quyền lực mềm. Cơ quan chủ quản, đặc biệt là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, cần ban hành các quy chuẩn về xuất bản điện tử, phân phối trực tuyến, và quản lý bản quyền số, đồng thời xác lập nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ biên tập viên, tác giả, và nhà xuất bản khi sử dụng không gian mạng.
Thêm vào đó, việc tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan lý luận, quản lý văn hóa, xuất bản và an ninh mạng là hết sức cần thiết. Cần có công cụ giám sát, phân tích dữ liệu số và đánh giá tác động xã hội của sản phẩm xuất bản để phát hiện sớm, xử lý kịp thời những nội dung sai lệch, xuyên tạc hoặc làm suy giảm hiệu quả quyền lực mềm quốc gia.
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động sáng tạo và mở rộng quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị thời kỳ công nghệ số tại Việt Nam.
Việt Nam cần xây dựng cơ chế khuyến khích sáng tạo và trách nhiệm giải trình trong hoạt động xuất bản lý luận, chính trị. Mỗi xuất bản phẩm không chỉ là một sản phẩm tri thức, mà còn là một phương tiện truyền bá giá trị tư tưởng của Đảng và Nhà nước, do đó phải đảm bảo chuẩn mực chính trị, tính khoa học, học thuật và sức lan tỏa xã hội. Quyền lực mềm của xuất bản chỉ thật sự bền vững khi được sử dụng đúng mục tiêu: phục vụ lợi ích quốc gia, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, và củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế ghi nhận, tôn vinh và khen thưởng các tác giả, biên tập viên, người xuất bản, chuyên gia có đóng góp sáng tạo trong xuất bản lý luận, chính trị. Những tác phẩm mới, những sáng kiến trong trình bày, chuyển thể, số hóa hay quảng bá hiệu quả nội dung lý luận, chính trị cần được xem như một tiêu chí quan trọng trong đánh giá, thi đua và xét khen thưởng trong ngành xuất bản.
Đồng thời, việc mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xuất bản lý luận chính trị cũng là một hướng đi quan trọng để nâng cao quyền lực mềm của Việt Nam. Thông qua các chương trình dịch thuật, trao đổi bản quyền, tham gia hội chợ sách quốc tế và xây dựng thương hiệu xuất bản số Việt Nam, chúng ta có thể đưa các giá trị tư tưởng, đường lối phát triển và bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới, góp phần khẳng định vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam trong không gian tri thức toàn cầu.
Kết luận
Đối với Việt Nam, mở rộng quyền lực mềm trong hoạt động xuất bản sách lý luận, chính trị không chỉ là yêu cầu đổi mới phương thức tuyên truyền, mà còn là yêu cầu chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên tri thức số. Điều này đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ giữa đổi mới tư duy lý luận, hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý, đào tạo và phát triển đội ngũ xuất bản chuyên nghiệp, cùng với đẩy mạnh sáng tạo, dịch thuật và hợp tác quốc tế về xuất bản.
Đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho ngành xuất bản, kích lệ, khen thưởng kịp thời cho những đơn vị xuất bản, những người xuất bản và tác giả có thành tích xuất sắc trong việc đem cốt lõi văn hóa tốt đẹp của Việt Nam thành những con chữ và đem những con chữ thành những tác phẩm có ý nghĩa cho đời. Điển hình Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Lao động hạng Ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tặng năm 1962; hai lần Huân chương Hồ Chí Minh (1990 và 2002); Huân chương Sao Vàng năm 2005; danh hiệu Anh hùng Lao động năm 2015, cùng nhiều huân, huy chương và bằng khen khác. Những kết quả đó khẳng định: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xứng đáng là cơ quan xuất bản nòng cốt của Đảng, là trung tâm của công tác tư tưởng – lý luận trong thời kỳ mới. Đó là minh chứng cho tinh thần tận tụy, trí tuệ, sáng tạo không mệt mỏi của biết bao các thế hệ cán bộ, biên tập viên, công nhân viên Nhà xuất bản – những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”, đã biến tri thức thành sức mạnh, thành vũ khí sắc bén để góp phần mở rộng quyền lực mềm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Mặt khác, để truyền thông cho chính mình trong bối cảnh ngày càng tăng những tin tức tiêu cực từ thế lực thù địch Nhà xuất bản “người gác cổng tư tưởng” phải khai thác sức mạnh của mình bằng việc xuất bản nhiều ấn phẩm sách lý luận chính đa ngôn ngữ, thực hiện chiến dịch truyền thông, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế, lễ hội văn hóa quốc tế... Tận dụng sự phát triển công nghệ số toàn cầu, ứng dụng nhiều hình thức số hóa khác nhau để quảng bá các giá trị cốt lõi văn hóa tốt đẹp của Việt Nam ra thế giới nhằm mở rộng quyền lực mềm, góp phần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”trong thời kỳ hội nhập và chuyển đổi số.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam, Báo Nhân Dân, ngày 15/9/2024.
2. Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
3. Brand Finance (2024), Global Soft Power Index 2024 Report, London, UK.
4. Nye, J. S. (2004), Soft Power: The Means to Success in World Politics, Public Affairs, New York.
5. United States Congress (2010), Plain Writing Act of 2010 (Public Law 111–274), Washington, D.C.
6. European Commission (2023), Communication and Information Strategy for the European Union 2023–2027, Brussels.
7. Japan Cabinet Office (2023), Cool Japan Strategy 2023, Tokyo.
8. Central Propaganda Department & Ministry of Information and Communications (2023), Chiến lược phát triển và chuyển đổi số trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành đến năm 2030, tầm nhìn 2045, Hà Nội.
9. Nguyễn Viết Thông (2021), “Quyền lực mềm trong công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2021.
10. Lê Quốc Minh (2023), “Phát triển quyền lực mềm Việt Nam trong kỷ nguyên số”, Tạp chí Cộng sản điện tử, truy cập ngày 12/9/2024, tại: https://www.tapchicongsan.org.vn.
CÙ THỊ THANH HOA
LÊ THỊ NGA

