/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Thực trạng quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Thực trạng quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

16/08/2025 06:51 |

(LSVN) - Trên thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử trong thời gian vừa qua, khi nghiên cứu nhiều bản án, quyết định giám đốc thẩm của các Tòa án thấy rằng việc quyết định hình phạt trong đồng phạm ở nhiều Tòa án còn nhiều tồn tại, hạn chế như: Việc xác định vị trí, vai trò của những người đồng phạm, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, hay vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp người thực hành, thực hiện hành vi vượt quá có nhiều trường hợp xác định không chính xác. Chính những tồn tại, hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả, mục đích của hình phạt.

Đặt vấn đề

Quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt trong đồng phạm nói riêng đã được quy định khá cụ thể tại Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2025 (BLHS). Quyết định hình phạt được thực hiện bởi Hội đồng xét xử (HĐXX) sau khi xác định tội danh mà những người phạm tội đã cùng thực hiện.

Theo đó, khi quyết định hình phạt HĐXX cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội để quyết định miễn trách nhiệm hình sự (TNHS), miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại hình phạt, mức hình phạt áp dụng đối với từng người phạm tội trong các trường hợp cụ thể.

Các căn cứ quyết định hình phạt là các nguyên tắc do luật Hình sự quy định buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trên thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử trong thời gian vừa qua, khi nghiên cứu nhiều bản án, quyết định giám đốc thẩm của các Tòa án thấy rằng việc quyết định hình phạt trong đồng phạm ở nhiều Tòa án còn nhiều tồn tại, hạn chế như: Việc xác định vị trí, vai trò của những người đồng phạm, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, hay vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp người thực hành, thực hiện hành vi vượt quá có nhiều trường hợp xác định không chính xác. Chính những tồn tại, hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả, mục đích của hình phạt.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Quy định pháp luật về quyết định hình phạt trong hợp đồng phạm

Tại Điều 30 BLHS quy định về khái niệm hình phạt như sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được áp dụng theo trình tự riêng biệt cho người phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện được mục đích của mình. Hình phạt với tư cách là sự hạn chế, tước bỏ những quyền, lợi ích quan trọng nhất của người phạm tội có những tác động nhất định đến bản thân người phạm tội cũng như tác động đến xã hội theo những hướng khác nhau tuỳ thuộc vào việc hình phạt đó được quyết định như thế nào. Quyết định hình phạt là một hoạt động trong quá trình áp dụng luật hình sự, dựa trên kết quả của hoạt động định tội danh trước đó. Theo khoản 1 Điều 50 BLHS quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau: “Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy, quyết định hình phạt do HĐXX thực hiện, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định để lựa chọn loại hình phạt phù hợp (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức hình phạt cụ thể được quy định trong BLHS để áp dụng cho người phạm tội phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được mục đích của hình phạt. Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng hình phạt đối với người phạm tội có đạt được mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt được ở mức độ cao hay thấp, đạt được mục đích hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt Tòa án.

Đồng phạm được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 17 BLHS. Theo đó, “đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Việc xác định đồng phạm dựa vào căn cứ khách quan và chủ quan.

Về mặt khách quan, đồng phạm luôn có những dấu hiệu bắt buộc là: Số người thực hiện hành vi phạm tội phải có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Người có năng lực TNHS theo luật hình sự Việt Nam là người có khả năng điều khiển hành vi và đã đạt độ tuổi chịu TNHS theo Điều 12 BLHS. Việc thực hiện một tội phạm phụ thuộc vào tính chất, quy mô, mục đích hay loại tội phạm mà họ hướng đến và có sự liên kết với nhau về mặt hành vi, có nhiều người tham gia và nhiều người giữ nhiều vai trò khác nhau. Trường hợp có nhiều người cùng nhau bàn bạc, thống nhất ý chí, chung sức để phối hợp với nhau cùng thực hiện một tội phạm sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm và tính chất nghiêm trọng cho xã hội nhiều hơn tội phạm đơn lẻ, đồng phạm giản đơn. Hậu quả gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm cùng gây ra. Những người đồng phạm hành động phối hợp với nhau để đạt được kết quả chung. Hành vi của những người đồng phạm có sự tác động qua lại lẫn nhau, họ hỗ trợ và thúc đẩy nhau thực hiện tội phạm.

Về mặt chủ quan, do đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt nên mặt chủ quan của đồng phạm cũng có những dấu hiệu khác so với tội phạm thông thường là những người cùng thực hiện một tội phạm đều phải có lỗi cố ý. Các đồng phạm đều nhận thức được hành vi của mình và những người còn lại gây ra có tính nguy hiểm cho xã hội, đồng thời biết trước hậu quả do hành vi của mình gây ra cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện. Bên cạnh dấu hiệu lỗi cùng cố ý thì đối với những tội phạm có cấu thành tội phạm mà điều luật quy định dấu hiệu động cơ hoặc dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì ta cần xem xét thêm dấu hiệu động cơ, mục đích trong mặt chủ quan của đồng phạm.

Về phân loại đồng phạm: khoản 3 Điều 17 BLHS liệt kê bốn loại người đồng phạm, bao gồm: “người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức”. Theo đó, người tổ chức được hiểu là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Đây là những người có vai trò quan trọng trong việc phát sinh, tồn tại và phát triển của nhóm đồng phạm có tổ chức nên là người nguy hiểm nhất trong vụ án đồng phạm. Do đó, nguyên tắc xử lý tội phạm tại điểm c khoản 1 Điều 3 BLHS đã quy định rõ rằng: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ...”. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện, tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc thực hiện tội phạm bằng thủ đoạn cố ý tác động đến người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy ngƣời khác thực hiện tội phạm, người xúi giục cũng có thể cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng cũng có thể không. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong đồng phạm: Quyết định hình phạt trong đồng phạm ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung của quyết định hình phạt như: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc cá thể hóa hình phạt; nguyên tắc công bằng (công minh) còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt trong đồng phạm, các nguyên tắc đó bao gồm: Nguyên tắc tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện; nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm; nguyên tắc cá thể hòa hình phạt của những người đồng phạm. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong đồng phạm tuy có những đặc điểm riêng đặc trưng trong quá trình quyết định hình phạt trong đồng phạm nhưng chúng vẫn nằm trong thể thống nhất với các nguyên tắc chung của quyết định hình phạt quy định BLHS. Để quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với các đồng phạm phạm tội dù họ thực hiện một tội phạm hay thực hiện nhiều tội phạm, khi áp dụng các chế tài luật hình sự, Hội đồng xét xử phải tuân theo một số nguyên tắc đặc thù sau đây:

Nguyên tắc tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện: Xuất phát từ tội phạm trong vụ án đồng phạm được thực hiện dựa trên sự hợp tác chung của tất cả những người cùng tham gia. Hành vi của mỗi người đồng phạm đều góp phần gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, cụ thể như sau: đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh, theo cùng điều luật và trong phạm vi những chế tài mà điều luật đó quy định; đều bị áp dụng những nguyên tắc chung về truy cứu TNHS, quyết định hình phạt, về thời hiệu đối với loại tội phạm mà họ đã thực hiện; cùng chịu về các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng được quy định ở Điều 52 BLHS, nếu họ đều biết, tức là đối với những tình tiết này họ cùng bàn bạc với nhau hoặc mọi người đều nhận thức và biết rõ về những tình tiết đó hoặc tuy không từng bàn bạc nhưng họ không buộc phải thấy trước và có thể thấy trước tình tiết đó.

Nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện đồng phạm: xuất phát từ quan điểm coi trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân, mặc dù trong vụ án đồng phạm mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự chung về toàn bộ tội phạm mà họ cùng thực hiện với những người đồng phạm khác, song việc xác định trách nhiệm hình sự đối với mỗi người đồng phạm vẫn phải căn cứ vào hành vi cụ thể của từng người. Những người đồng phạm chỉ chịu trách nhiệm về những hành vi mà những đồng phạm cùng chung hành động và cùng chung ý định phạm tội chứ không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành hoặc của những người đồng phạm khác. Khi áp dụng nguyên tắc này cần có một số lưu ý sau: những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người khác; những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng liên quan đến riêng người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đó; những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đó; hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức dù chưa dẫn đến việc thực hiện tội phạm của người thực hành vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.

Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt của những người đồng phạm: Trong vụ án hình sự có đồng phạm, tuy mỗi người cùng tham gia thực hiện một tội phạm nhưng tính chất và mức độ tham gia phạm tội tham gia phạm tội của từng người lại khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mỗi người đồng phạm cũng khác nhau nên tại khoản 1 Điều 58 BLHS quy định:“Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đó”. Khi xác định mức độ tham gia phạm tội của mỗi người đồng phạm thì cần phải xác định người phạm tội đó là ai, họ là người thực hành, người tổ chức, người xúi giục hay người giúp sức, họ hoạt động với vai trò gì, tích cực, quyết tâm đến đâu; có động cơ, mục đích như thế nào; đã dùng những công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội nào; mức độ đóng góp thực tế của từng người đồng phạm vào việc thực hiện tội phạm cũng như việc gây hậu quả phạm tội chung. Thông thường, người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực là những người có vai trò nguy hiểm cao hơn những người đồng phạm khác, do đó hình phạt áp dụng đối với họ cũng phải nghiêm khắc hơn.

Tuy nhiên, với cách phân loại những người đồng phạm theo BLHS quy định nguyên tắc xử lý tại điểm a khoản 1 Điều 3 Điều 58“nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy,...”. Theo đó, người tổ chức được xác định là người nguy hiểm hơn cả, nên bị xử lý nghiêm khắc nhất, còn đối với người xúi giục, người giúp sức, người thực hành vẫn chưa có quy định cụ thể sự phân hóa rõ ràng trách nhiệm hình sự của những người này. Vì vậy, trong khi áp dụng hình phạt đối với những người đồng phạm trong một số vụ án đồng phạm vẫn tồn tại sai sót, áp dụng không thống nhất, quyết định hình phạt nhẹ hoặc quá nặng, chưa công bằng giữa người chủ mưu cầm đầu, chỉ huy và những người đồng phạm khác dẫn đến quyết định hình phạt chưa chính xác, không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa tội phạm. Cá thể hóa hình phạt giữa những người đồng phạm là thể hiện cụ thể của nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, mặt khác đảm bảo cho nguyên tắc pháp chế được thực hiện, tránh tự do, tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Vì vậy, việc cá thể hóa hình phạt càng được thực hiện cụ thể càng tốt.

Các căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm: Khi HĐXX quyết định hình phạt căn cứ quyết định hình phạt ngoài những quy định chung khi quyết định hình phạt, Tòa án còn phải xác định dựa trên các căn cứ quy định riêng đối với đồng phạm tại Điều 58 BLHS cụ thể như sau: thứ nhất, tính chất của đồng phạm; thứ hai, tính chất tham gia phạm tội của từng người đồng phạm; thứ ba, mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm; thứ tư, những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của riêng từng người đồng phạm.

Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải cân nhắc tính chất của đồng phạm: Tính chất của đồng phạm là căn cứ đầu tiên mà tòa án phải dựa vào khi quyết định hình phạt. Tính nguy hiểm cho xã hội của đồng phạm còn được quyết định bởi hình thức của đồng phạm. Khi tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm thì làm cho tội phạm đó thay đổi về tính chất và mang tính nguy hiểm cao hơn. Do đó, Hội đồng xét xử cần phải cần đánh giá chính xác hình thức đồng phạm ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt, khi quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm. Như vậy, việc xem xét, cân nhắc tính chất đồng phạm là căn cứ chung, căn cứ đầu tiên mà tòa án phải dựa vào căn cứ. Tuy nhiên, căn cứ này mới chỉ là căn cứ có tính chất đánh giá, xác định chung cho tất cả những người tham gia đồng phạm, còn muốn xác định mức độ cụ thể cho từng người đồng phạm phải dựa vào căn cứ tiếp theo.

Khi Tòa án quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm phải căn cứ vào tính chất tham gia hành động phạm tội của từng người đồng phạm: Quy định luật hình sự Việt Nam xác định trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân cho nên khi xác định trách nhiệm hình sự cụ thể để quyết định hình phạt cho từng người đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi cá nhân mỗi người đồng phạm. Tính chất tham gia phạm tội ở từng người đồng phạm được quyết định bởi vai trò mà người đồng phạm đảm nhận, được xác định bởi tính chất đặc thù của nhiệm vụ và tác dụng của người đó trong hoạt động phạm tội chung. Xác định tính chất tham gia phạm tội của từng người đồng phạm là phải xác định rõ người đó tham gia đồng phạm là loại người gì, là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức hay người thực hành? ai là chủ mưu, cầm đầu? trong một vụ đồng phạm, thường thường mỗi người tham gia với vai trò khác nhau, nhưng cũng có trường hợp một người tham gia với nhiều vai trò trong đồng phạm. Mức độ tham gia của người đồng phạm được xác định bởi mức độ đóng góp thực tế của mỗi người đồng phạm vào việc thực hiện tội phạm và hậu quả chung của tội phạm. Trong thực tế, để xác định mức độ tham gia của mỗi người đồng phạm tòa án phải dựa vào các dấu hiệu như: phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, mức độ quyết tâm phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội, hiệu quả của hành vi phạm tội của người đó trong hoạt động phạm tội chung. Tại Điều 58 BLHS quy định: “Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội…”. Như vậy, khi quyết định hình phạt trong đồng phạm Hội đồng xét xử ngoài căn cứ quyết định hình phạt chung (Điều 50 BLHS), còn phải căn cứ vào tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm là sự thể hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của mỗi người đồng phạm.

Khi quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm, tòa án phải cân nhắc những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của từng người đó. Căn cứ này biểu hiện sự cụ thể hóa của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với những người đồng phạm. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mỗi người tham gi đồng phạm là những tình tiết chỉ liên quan đến hành vi và nhân thân của người đó mà không liên quan đến những người đồng phạm khác thì chỉ áp dụng đối với người đó còn những người đồng phạm khác không phải chịu (đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự) hoặc không được hưởng (đối với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) trong việc quyết định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm. Những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng riêng cho từng người đồng phạm chủ yếu là các tình tiết vừa có liên quan đến hành vi phạm tội chung vừa có liên quan đến cá nhân người phạm tội nhưng chủ yếu liên quan đến cá nhân người phạm tội nhiều hơn.

Thực trạng quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Mặc dù BLHS đã quy định khá cụ thể về các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt trong đồng phạm nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng khi quyết định hình phạt trong đồng phạm vẫn còn nhiều sai sót, nhiều trường hợp áp dụng không đúng.

Thứ nhất, sai sót trong việc áp dụng các quy định của BLHS không chính xác: Việc quyết định hình phạt không đúng có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là không thực hiện đúng các quy định của BLHS. Đặc biệt, không áp dụng hoặc áp dụng không đúng các tình tiết định khung hình phạt, có trường hợp không đánh giá đúng tính chất đồng phạm (phạm tội có tổ chức, có tính chất côn đồ, phạm tội 02 lần trở lên …).

Ví dụ: Đ.T.N. và chồng là L.V.H. làm nghề mua bán thịt chó và có 01 xe ô tô tải để vận chuyển. Do quen biết vợ chồng N., H. nên T.M.C. giới thiệu C. V. H. đến lái xe cho N., mỗi chuyến được N. trả tiền công 500.000 đồng. T.M.C. nảy sinh ý định trộm cắp chó để bán cho N. nên C., N., H. cùng nhau bàn bạc thống nhất: C. và một số đối tượng sẽ thực hiện việc bắt trộm chó thu gom vào rọ sắt đặt tại địa điểm tập kết; H. sẽ điều khiển xe ô tô thu gom chó đem về nhà vợ chồng N., H. tiêu thụ. Sau khi bàn bạc như trên, N. trực tiếp đứng ra điều động và giao xe cho H. để phối hợp với nhóm của C. thực hiện việc bắt trộm chó. Khoảng 22 giờ ngày 17/10/2016, C. cùng với C., M., H. (chưa xác định được lai lịch) điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ gồm: Thòng lọng, ná cao su, bao tải, băng keo, ớt bột... thực hiện bắt trộm được 27 con chó, C.V.H. dùng xe ô tô vận chuyển số chó trên về bán cho N. thì bị bắt quả tang. Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 27 con chó có trọng lượng 358kg trị giá 17.900.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 06/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện S., tỉnh P., dụng khoản 1 Điều 138; Điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 xử phạt: Bị cáo T.M.C. 01 năm tù; bị cáo Đ.T.N. và bị cáo C.V.H. mỗi bị cáo 06 tháng tù. Bản án hình sự phúc thẩm giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm.

Trong vụ án trên thấy rằng Tòa án hai cấp xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng tội danh. Tuy nhiên, qua vụ án thấy rằng bị cáo C. là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi trộm cắp; bị cáo N. là người điều động xe ô tô để vận chuyển, chuẩn bị sẵn rọ sắt trên xe để nhốt chó và tiêu thụ tài sản trộm cắp được; bị cáo H. lái xe theo sự chỉ đạo của N. đến địa điểm tập kết để chở chó trộm cắp được về cho N.. Để việc trộm cắp trót lọt, các bị cáo đã lên kế hoạch, chuẩn bị cụ thể, phân công từng người thực hiện hành vi phạm tội, với sự tham gia của nhiều người phân công vị trí, vai trò, công việc của nhiều người và thực hiện đúng như kế hoạch đã vạch ra. Hành vi phạm tội của các bị cáo luôn có sự giúp sức, hỗ trợ, phối hợp cho nhau, mỗi bị cáo đều có vai trò cụ thể, không tách rời nhau. Tòa án hai cấp áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS 1999 để xét xử các bị cáo là không đúng khung hình phạt. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội của các bị cáo phải bị xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 138 BLHS 1999 với tình tiết định khung “Có tổ chức” mới đúng với tính chất của vụ án.

Thứ hai, sai sót trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; áp dụng không đúng hoặc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS một cách tuỳ tiện, thiếu căn cứ, từ đó quyết định hình phạt nặng hoặc nhẹ hơn nhiều so với tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo trong đồng phạm.

Ví dụ: Tối ngày 07/01/2018, P.D.K. thách thức N.V.T. đến nhà K. đánh nhau, giải quyết mâu thuẫn. T. đồng ý và rủ N.T.H. cùng với các đối tượng tên T., S., B. và một số thanh niên khác (khoảng 15 người, không xác định được số lượng, nhân thân, lai lịch) để đến nhà K. đánh nhau. Sau đó, Hoàng điện thoại rủ N.V.T., T. đồng ý và về nhà lấy 01 con đao, Hoàng điều khiển xe mô tô chở T. đi. Khi đến cầu H. thì gặp nhóm của T. (mang theo cây ba trắc bỏ trong túi quần) đang đợi, tất cả nhập chung thành một nhóm, đi trên nhiều xe mô tô, cùng nhau mang theo hung khí kéo đến nhà của K.. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, cả nhóm đến nhà bà P.T.P.N. (mẹ K.) kinh doanh quán cà phê Trung Nguyên. Thấy nhóm T. đồng người nên nhóm K. đóng cổng chạy vào trong nhà. K. cầm “súng bắn cá” tiếp tục cãi vã với T.. T. thách thức nói: “Bảnh thì bắn đi”, nhóm K. ở trong nhà ném ly thủy tinh ra chỗ nhóm T. đang đứng. Thấy vậy, T. nhặt đá bên đường ném lại vào nhà K. và nói: “Ném chết mẹ nó đi” thì nhóm T. nhặt đá ném lại vào nhà K. làm vỡ vách kinh C. lực, hỏng một số bộ phận xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 79A- 136.XX (đang đỗ trong sân) và một số vật dụng khác. Thấy T. ném đá vào nhà K., T. cũng nhặt đá ném vào. Lúc này, nhóm K. dùng súng bắn cá bắn một mũi tên, đầu bằng kim loại ra phía nhóm T., nhưng không trúng ai. T. nhặt mũi tên bắn cá ném lại vào nhà K. trúng vào phần đuôi xe ô tô nhãn hiệu KIA, BKS: 79A- 136.XX Trường đạp sập cửa cổng để nhóm xông vào nhà K. đập phá bàn, ghế, ly thủy tinh và kính xe ô tô nêu trên và một số vật dụng khác. T. dùng đao đập vỡ mặt bàn đá granit, sau đó T. hô cả nhóm rút lui. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản là: 54.463.000 đồng.Tại Bản án hình sự sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt bị cáo N.V.T. 01 năm tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Bản án hình sự sơ thẩm xét xử bị cáo N.V.T. phạm tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản” là có căn cứ, đúng tội danh. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 01 năm tù theo điểm b khoản 2 Điều 178 BLHS (có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm) là quá nhẹ, không tương xứng với vai trò và tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo. N.V.T. là người cầm đầu, chủ mưu, lôi kéo các đối tượng khác phạm tội và hành vi phạm tội của N.V.T. thuộc trường hợp có “tính chất côn đồ”, “tái phạm” nên đã phạm vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm d, h khoản 1 Điều 52 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo là không đúng.

Ngoài ra, quá trình điều tra N.V.T. khai nhận: Tối ngày 07/01/2018, T. gọi điện thoại cho N.D.K. thì K. gây sự, thách thức hẹn đánh nhau nên T. đồng ý và rủ N.T.H. cùng với T., S., B. và một số thanh niên khác (khoảng 15 người, không xác định được số lượng, nhân thân, lai lịch) để đi đánh K.. Sau đó, Hoàng điện thoại rủ N.V.T., T. đồng ý và về nhà lấy 01 con đao rồi nhập chung thành một nhóm, đi trên nhiều xe mô tô, cùng nhau mang theo hung khí kéo đến nhà bà P.T.P.N. (mẹ K.) là quán cà phê Trung Nguyên. Lời khai của N.V.T. phù hợp với lời khai của N.V.T., N.T.H. và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Mục đích ban đầu của N.T.H., N.V.T. và các đối tượng khác (khoảng 15 người) là cùng với T. đi đánh K.. Tuy nhiên, khi đến nhà K., bị nhóm của K. ném ly thủy tinh, thì T. đã hô hào, kích động cả nhóm cùng nhau dùng gạch, đá ném lại. Sau đó, Trường đạp sập cửa cổng, thì cả nhóm xông vào đập phá bàn, ghế, ly thủy tinh, kính xe ô tô và một số vật dụng khác của nhà bà P.T.P.N. (mẹ K.). Như vậy, tại thời điểm này T., T., Trường và các đối tượng khác đã tiếp nhận ý chí lẫn nhau, cùng nhau thực hiện hành vi làm hư hỏng tài sản nhà bà Nữ. Hành vi của T., Trường và các đối tượng đi cùng đã cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” với vai trò đồng phạm giúp sức cho N.V.T.. Các cơ tiến hành tố tụng thành phố N., tỉnh K. không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N.V.T. là không đánh giá đúng, toàn diện vụ án dẫn đến bỏ lọt người phạm tội.

Sai sót trên xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của Chủ tọa, Hội đồng xét xử chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên đã không đánh giá đầy đủ, toàn diện các tình tiết của vụ án hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội khi quyết định hình phạt. Mặt khác, khi quyết định hình phạt, nhiều Hội đồng xét xử đã không chú ý đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà chỉ chú ý đến các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng. Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS cũng thiếu căn cứ, không chính xác, thực tiễn có Hội đồng xét xử đã xác định cả những tình tiết không phải là tình tiết giảm nhẹ và không được quy định trong điều luật cũng như các văn bản hướng dẫn.

Thứ ba, sai sót trong việc đánh giá tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm chưa đúng, do đó xác định vị trí, vai trò của những người đồng phạm chưa chính xác.

Ví dụ: N.V.P. cho anh Đ.N.M. vay 10 triệu đồng nhưng P. đòi nhiều lần mà anh M. không trả nên P. có ý định đánh anh M. để dằn mặt. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23/5/2014, tại một quán nước ở khu vực phố H. (TP. H), N.V.P. đã rủ K.V.C., Đ.T.S., N.Q.H. và T.Q.H. cùng đi đánh anh M. và cho các đồng phạm xem ảnh của anh M. qua điện thoại di động. Cả nhóm xem ảnh và đồng ý. Sau đó, P. điều khiển xe máy chở S. và H. đến khu vực gần nhà anh M. để thuê nhà nghỉ. H. chở C. đi mua 02 con dao quắm; khi vực cửa hàng có bán tuýp sắt, C. vào mua 02 tuýp sắt và gắn ren vào chuôi một con dao quắm để gắn dao vào tuýp sắt. Làm xong, H. tiếp tục chở C. đến gặp P., S. và H. rồi cả nhóm cầm theo túi nilon đựng hung khí đi về phía nhà anh M. Tại khu vực làng T., P., S. và H. phục ở đầu ngõ; H. và C. phục ở cuối ngõ, thỏa thuận nếu thấy anh M. sẽ thông báo cho cả nhóm biết và cùng tham gia đánh anh M.. Chờ đến khoảng 21 giờ không thấy anh M. về nên cả nhóm về nhà nghỉ.

Từ 05 giờ 30 phút đến 18 giờ ngày 24/5/2014, cả nhóm tiếp tục đến phục ở khu vực nhà anh M. thêm 02 lần nữa. Đến khoảng 18 giờ 40 phút, thấy anh M. về, C. đã thông báo cho cả nhóm biết. Sau đó, H. điều khiển xe máy chở S. và P. đến gần nhà anh M. H. chở C. về nhà nghỉ lấy túi đựng hung khí rồi quay lại. C. đưa cho P. 01 con dao quắm, đưa cho S. 01 tuýp sắt còn C. cầm tuýp sắt có gắn dao quắm. P., C. và S. đi bộ vào nhà anh M.. H. và H., mỗi người ngồi trên 01 xe máy để cảnh giới và chờ các đồng phạm.

Trên đường vào nhà anh M., C. tháo dao quắm khỏi tuýp sắt, tay phải cầm dao, tay trái cầm tuýp sắt; P. cầm dao quắm đi trước, C. và S. đi sau. Lúc này, anh M. cởi trần, quay mặt vào phía bếp (trong bếp còn có chị T.T.H.P, là vợ anh M.). P. bảo anh M. trả tiền, anh M. trả lời không nợ nần gì. P. và anh M. giằng co với nhau. C. cầm dao quắm xông vào chém 01 nhát trúng ngực anh M. Bị chém bất ngờ, anh M. quay người bỏ chạy về phía cầu thang, P. từ phía sau cầm dao quắm chém một nhát trúng vùng lưng, rồi tiếp tục chém vào đầu và lưng anh M. S. cầm tuýp sắt vụt một nhát trúng vào vùng trán anh M.. Chị P. chạy ra ngoài ngõ kêu cứu. P. và S. chạy ra ngoài trước, C. tiếp tục dùng dao quắm chém mấy nhát nữa vào chân anh M. rồi chạy ra sau. S. lên xe máy do H. điều khiển, P. và C. lên xe máy do H. điều khiển rồi cả nhóm bỏ chạy. N.V.P. và K.V.C. trốn lên tỉnh S. rồi sang nước khác. Đến ngày 31/8/2017, P. và C. bị Công an Trung Quốc bắt, đưa về Việt Nam. Anh Đ.N.M. chết do shock mất máu do đa chấn thương.

Bản án hình sự sơ thẩm áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 BLHS xử phạt N.V.P. tử hình; K.V.C., Đ.T.S. tù chung thân về tội “Giết người”. Ngày 17/7/2018, P. kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bản án hình sự phúc chấp nhận kháng cáo của N.V.P., áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 123; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 BLHS xử phạt N.V.P. tù chung thân về tội “Giết người”.

Trong vụ án này, N.V.P. giữ vai trò chủ mưu, khởi xướng, rủ rê, chỉ huy các đồng phạm cùng đánh anh Đ.N.M.. Ngoài ra, P. còn trực tiếp gây nên cái chết của anh M., P. có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị kết án, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung quy định tại điểm p khoản 1 Điều 123 BLHS. K.V.C. giữ vai trò thứ hai, trực tiếp đi mua hung khí (02 con dao quắm, 02 tuýp sắt rồi gắn dao vào tuýp sắt); khi phát hiện ra anh M. đã về nhà, C. thông báo cho cả nhóm rồi đi về nhà nghỉ lấy túi đựng hung khí quay lại đưa hung khí cho các đồng phạm; khi anh M. và P. đang giằng co, C. dùng dao chém vào ngực anh M.; khi anh M. đã ngã ra nhà, vợ anh M. hô hoán, C. vẫn tiếp tục dùng dao chém vào chân anh M. Đ.T.S. giữ vị trí thứ ba, tham gia cùng P. và C. đánh anh M., S. trực tiếp dùng tuýp sắt đánh vào đầu anh M. Vì vậy, hình phạt đối với N.V.P. phải nghiêm khắc hơn Đ.T.S.. Mặc dù, N.V.P. có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng không tác động lớn đến mức hình phạt đối với bị cáo. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho N.V.P. từ tử hình xuống tù chung thân là đánh giá không đúng vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, chưa bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong vụ án có đồng phạm, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh đối với tội phạm giết người trong tình hình hiện nay. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt N.V.P. tử hình về tội “Giết người” là tương xứng với vai trò chủ mưu, cầm đầu và tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Thứ tư, một số trường hợp bỏ lọt tội phạm do xác định đồng phạm không đúng hoặc thiếu:

Ví dụ: Thông qua giới thiệu của bà Nguyễn Thị Ngọc H., đầu tháng 10/2017, Nguyễn Thị V. quen biết với bà Trần Thị Tuyết M., sau đó V. vay mượn của bà M. số tiền 50.000.000 đồng, nhưng chưa có tiền để trả. Để có tiền tiêu xài cá nhân, Nguyễn Thị V. thuê đối tượng có tên nickname zalo là “Lâm Tùng” làm giả 01 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất” (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) đứng tên Nguyễn Thị V. đối với thửa đất số 25B1, tờ bản đồ số 60, phường K., quận C., thành phố Đ. với giá 25.000.000 đồng. Sau khi có được GCNQSDĐ giả, Nguyễn Thị V phô-tô 01 bản đưa cho bà M xem và đặt vấn đề chuyển nhượng lô đất trên cho bà M. với giá 3.000.000.000 đồng, đồng thời để cho bà M. tin tưởng, V. đã đưa bà M. đến địa chỉ lô đất để xem. Nguyễn Thị V. nói dối với bà M. là GCNQSDĐ hiện đang thế chấp cho vợ chồng bà Phạm Thị H. (chú, thím của V.) để vay số tiền 600.000.000 đồng. Nguyễn Thị V. hẹn bà M. mang số tiền 600.000.000 đồng đến giao cho bà H. để lấy lại GCNQSDĐ rồi tiến hành chuyển nhượng lô đất. Được sự trợ, giúp sức của bà H., bà M. tin tưởng giao cho bà H. số tiền 600.000.000 đồng vào ngày 21/10/2017. Sau đó, Nguyễn Thị V. tiếp tục đến nhà bà M. nhận thêm số tiền 600.000.000 đồng và viết giấy nhận cọc của bà M. tổng cộng số tiền 1.250.000.000 đồng, bao gồm cả số tiền 50.000.000 đồng đã vay mượn trước đó.

Bản án hình sự sơ thẩm đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 BLHS, xử phạt Nguyễn Thị V. 13 năm tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội: “Làm giả con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Buộc Nguyễn Thị V. phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 16 năm tù. Ngoài ra, bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, kiến nghị, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo. Ngày 23/11/2020, bà Trần Thị Tuyết M. kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét trách nhiệm của vợ chồng bà Phạm Thị H.

Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị V. về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 BLHS và tội: “Làm giả con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 341 BLHS là đúng tội danh. Tuy nhiên, trong vụ án này, bà Phạm Thị H. là người biết rõ Nguyễn Thị V. không mượn của vợ chồng bà H. 600.000.000 đồng và vợ chồng bà H. cũng không nhận thế chấp GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Thị V. Thế nhưng, vào lúc 19h30 ngày 21/10/2017, tại nhà của mình, bà H là người cầm 02 tài liệu gồm: 01 GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Thị V và 01 Giấy mượn tiền ghi nội dung Nguyễn Thị V. mượn của vợ chồng bà H. 600.000.000 đồng trao đổi với bà M., sau đó giao 02 tài liệu này cho bà M. để nhận 600.000.000 đồng. Việc Nguyễn Thị V. nói với bà M. là có nợ vợ chồng bà H. 600.000.000 đồng và giao GCNQSDĐ cho vợ chồng bà H. giữ phù hợp với hành vi của bà H. trong việc trao đổi và giao GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Thị V. cho bà M. nên bà M. tin tưởng giao 600.000.000 đồng cho bà H. Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30/9/2020, Nguyễn Thị V. và bà Phạm Thị H. đều khai nhận, nếu không có sự giúp sức của bà H. thì Nguyễn Thị V. không chiếm đoạt được tiền của bà M. Như vậy, bà Phạm Thị H. có dấu hiệu đồng phạm với Nguyễn Thị V trong việc lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà M. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ vụ án để VKSND cùng cấp điều tra bổ sung làm rõ vai trò của bà H có hay không trong việc giúp sức cho Nguyễn Thị V. thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của bà M. VKSND sơ thẩm không tiến hành điều tra bổ sung để làm rõ vụ án mà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố là thiếu sót, nên hủy bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại.

Qua vụ án trên thấy rằng, mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án HĐXX đã phát hiện và trả hồ sơ để điều tra bổ sung hành vi của Phạm Thị H. có dấu hiệu đồng phạm hay không. Tuy nhiên, do quy định của BLTTHS về giới hạn xét xử của tòa án (quy định tại Điều 196 BLTTHS) đã làm cho Tòa án xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo không đúng và bỏ lọt tội phạm.

Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và kiến nghị

Mặc dù, BLHS đã sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên, một số quy phạm của chế định đồng phạm và chế định quyết định hình phạt nói riêng và quyết định hình phạt trong đồng phạm nói chung trong BLHS hiện hành và các văn bản hướng dẫn vẫn còn rất chung chung, dẫn đến những khó khăn lúng túng trong thực tế áp dụng. Nghiên cứu BLHS hiện nay chưa có Điều luật nào quy định cụ thể sự phân hóa trách nhiệm hình sự giữa người tổ chức, xúi dục, giúp sức và người thực hành, mà mới chỉ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Điều 58“nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy,...”, còn đối với người xúi dục, người giúp sức, người thực hành vẫn chưa có sự phân hóa rõ ràng, thực tiễn xét xử trong nhiều trường hợp người thực hành nhiều khi bị áp dụng mức hình phạt nặng hơn. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung BLHS theo hướng quy định có phân hóa rõ hơn về trách nhiệm hình sự của người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Quy định tại Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử đó là Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát tuy tố, tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác trong điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Trong trường hợp Tòa án thấy rằng bị cáo phạm tội khác nặng hơn hoặc vụ án còn có người phạm tội khác nhưng khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra, truy tố Viện kiểm sát không đồng ý với quan điểm của tòa án, quy định này buộc Tòa án vẫn phải xét xử mặc dù biết việc xét xử và quyết định hình phạt đó là sai nhưng cũng phải xét xử. Sau đó, lại kiến nghị trong bản án yêu cầu khởi tố điều tra làm rõ hành vi bỏ lọt đồng phạm, có nhiều bản án đã bị hủy và điều tra xét xử lại gây kéo dài thời gian, tốn kém khi giải quyết vụ án.

Nhận thức của những người tiến hành tố tụng về đồng phạm, các loại người đồng phạm nhiều khi chưa chính xác, nhiều Thẩm phán chưa dành nhiều thời gian để nghiên cứu sâu về các văn bản pháp luật liên quan đến vụ án và cập nhật các văn bản hướng dẫn mới chưa kịp thời nên đã ảnh hưởng đất chất lượng xét xử. Do đó, cẩn quan tâm công tác đào tạo, tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán và Hội thẩm thường xuyên, kịp thời nhằm đáp ứng được yêu cầu, chất lượng xét xử trong thời gian tới.

Thạc sĩ NGUYỄN VĂN HUY

Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 5

Các tin khác