/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Tội 'Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản' - Lý luận và thực tiễn áp dụng

Tội 'Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản' - Lý luận và thực tiễn áp dụng

11/02/2025 06:59 |1 tháng trước

(LSVN) - Hiện nay do chưa có văn bản mới thay thế nên chúng ta vẫn có thể áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 để giải quyết trong một số trường hợp liên quan đến tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung. Tuy nhiên, do các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của BLHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi bổ sung so với BLHS năm 1999 nên việc áp dụng Thông tư trong một số vụ án không còn phù hợp. Nhằm bảo đảm việc định tội danh đối với nhóm tội phạm này bảo đảm chính xác, không để xảy ra sai sót gây bất lợi cho người phạm tội, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thay thế Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP.

Quy định của pháp luật

Điều 175 Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 quy định về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" như sau:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; g)Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Điều luật đã mô tả cụ thể dấu hiệu khách quan (mặt khách quan) cấu thành loại tội phạm này. Theo đó, tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" thuộc nhóm tội phạm có cấu thành vật chất.

Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được coi là hoàn thành từ thời điểm có thiệt hại xảy ra.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Nhìn chung, để xác định, định tội danh đối với loại tội phạm này theo quy định tại Điều 175 BLHS rất cụ thể, rõ ràng. Một số ví dụ điển hình về loại tội phạm này như: Ví dụ: A. làm thủ tục vay ngân hàng B. số tiền 02 tỉ đồng theo quy định. Đến thời hạn trả tiền mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng A. cố tình không trả nên ngân hàng B. đã làm đơn tố giác tội phạm gửi cơ quan Công an. Hoặc cùng với ví dụ tương tự, A. sau khi có được số tiền 02 tỉ đồng một cách hợp pháp nhưng sau đó đã bỏ trốn ra nước ngoài nhằm chiếm đoạt số tiền…..

Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập về tội này quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999, Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những sửa đổi, bổ sung đó là:

Thứ nhất, về yếu tố cấu thành tội phạm, thì đồng thời với việc bổ sung tình tiết định tội (tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ), BLHS không quy định hành vì lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 4.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây là phạm tội: Một là, đã bị xử phạt hành chính về hành vi tham ô tài sản hoặc hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm; Hai là, đã bị kết án về tội tham ô tài sản hoặc tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Thứ hai, bỏ tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng”, bổ sung các tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội" làm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại khoản 2.

Thứ ba, bỏ tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” tại khoản 3.

Thứ tư, bỏ tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 4.

Thứ năm, quy định mức hình phạt tù “từ 05 năm đến 12 năm” thay cho mức hình phạt tù “từ 07 năm đến 15 năm” tại khoản 3; bỏ hình phạt tù chung thân tại khoản 4.

Một trong những điểm mới nổi bật của loại tội này theo quy định của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 đó chính là bỏ hình phạt tù chung thân. Việc sửa đổi này là hoàn toàn phù hợp, xuất phát từ đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp; xuất phát từ yêu cầu về bảo vệ quyền con người.

Thực tiễn áp dụng

Thực tiễn giải quyết, xét xử tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" bên cạnh những ưu điểm, trong một số vụ án cụ thể khi định tội danh hoặc khi xác định số tiền chiếm đoạt làm căn cứ định tội, định khung hình phạt đối với loại tội này vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau như:

Ví dụ 1: Trường hợp người vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích vay vốn, tức là dùng vốn vay với mục đích ban đầu là đầu tư, kinh doanh, sản xuất nhưng sau đó tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiện đi lại dẫn đến không trả được nợ thì có được coi là “sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” và có bị xử lý trách nhiệm hình sự về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 không?

Đối với trường hợp này đã được giải đáp rất cụ thể tại Mục 6 Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019: “Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù cỏ điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. So với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 của BLHS năm 1999, điểm a khoản 1 Điều 175 của BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm tình tiết “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Như vậy, người vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích xin vay vốn nhưng không sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp (buôn lậu, rửa tiền, sản xuất, buôn bán ma túy...) mà dùng vốn vay để tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiện đi lại...) dẫn đến khi đến hạn họ không có điều kiện, khả năng trả nợ thì không coi là sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản để xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trường hợp đến thời hạn trả lại tài sản mà họ có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả (có nhà, đất đai, tài sản nhưng chây ì, tẩu tán hoặc có hành vi chống đối lại việc kê biên, thu hồi tài sản...) thì bị xử lí trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 175 của BLHS năm 2015”.

Ví dụ 2: Nguyễn Văn A. do thiếu vốn làm ăn nên đã tự ý chụp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh trai A. là Nguyễn Văn B. rồi giao dịch qua mạng xã hội làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của B nhưng mang tên vợ chồng A. để thế chấp vay ngân hàng 01 tỉ đồng; mục đích vay để kinh doanh nhà hàng ăn uống. Do không phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giả nên ngân hàng C. đã cho anh A. vay số tiền 01 tỉ đồng. Sau khi nhận được số tiền trên thì A. sử dụng đúng mục đích vay nhưng do công việc kinh doanh không thuận lợi, doanh thu không đạt yêu cầu đề ra dẫn đến A. không có khả năng trả khoản nợ 01 tỉ đồng trên. Sau nhiều lần hứa hẹn trả nợ nhưng A. vẫn không thực hiện được nên Ngân hàng C. đã làm đơn tố giác gửi cơ quan Công an.

Đối với vụ án này có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh việc định tội danh đối với A. về việc A. phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 BLHS hay phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo Điều 175 BLHS.

Theo quan điểm của tác giả, A. không phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 BLHS và cũng không phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo Điều 175 BLHS.

Thứ nhất, A. không phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", bởi vì mặc dù A. dùng thủ đoạn gian dối là làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới vay được số tiền trên nhưng A. không có động cơ, mục đích nhằm chiếm đoạt số tiền này. Thực tế khi có được số tiền 01 tỉ đồng, A. sử dụng làm ăn, kinh doanh hợp pháp. Do vậy, hành vi của A. không thỏa mãn dấu hiệu khách quan thứ hai “nhằm chiếm đoạt tài sản” của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 174 BLHS.

Thứ hai, A. không phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", cũng như phân tích trên, A. sử dụng thủ đoạn gian dối mới có được số tiền này. Nhưng A. cũng không có thủ đoạn, hành vi nào nhằm chiếm đoạt số tiền 01 tỉ đồng. Về dấu hiệu cấu thành của tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" đối chiếu với hành vi của A. không thỏa mãn dấu hiệu “có được tài sản một cách hợp pháp….” và cũng không thỏa mãn dấu hiệu “dùng các thủ đoạn như bỏ trốn, sử dụng vào mục đích bất hợp pháp… nhằm chiếm đoạt tài sản”. Có thể tham khảo, áp dụng tinh thần Mục 6 Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019.

Ví dụ 3: Các vụ án chiếm đoạt tiền cước xảy ra ở Viettel Post các tỉnh. Cụ thể A. là nhân viên hợp đồng hợp tác kinh doanh với Chi nhánh Bưu chính Viettel tỉnh V. Sau khi thu tiền của khách hàng, A. không nhập thông tin khách hàng lên hệ thống và không nộp tiền về Chi nhánh Bưu chính Viettel tỉnh D. theo quy định của hợp đồng số tiền 130 triệu đồng mà chiếm đoạt sử dụng chi tiêu cá nhân và đóng cước hàng tháng cho khách hàng (mục đích đóng cước hàng tháng là nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình). Hành vi phạm tội của A. bị phát hiện khi không còn tiền để duy trì cước hàng tháng cho khách hàng. Hành vi của A. làm cho Viettel Post tỉnh V. không phát hiện (số tiền A. đã đóng cước hàng tháng cho khách hàng là 90 triệu đồng; số tiền thực tế chưa nộp về cho Viettel tỉnh V. là  40 triệu đồng). Xung quanh việc xác định số tiền làm tình tiết định khung hình phạt đối với A. còn tồn tại hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất, từ thời điểm A. có hành vi không nộp số tiền 130 triệu đồng về Viettel Post thì hành vi phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" đã hoàn thành nên cần xác định số tiền 130 triệu đồng làm căn cứ định khung hình phạt A theo khoản 2 Điều 175 BLHS.

Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả: Mặc dù tội phạm hoàn thành từ thời điểm A. có hành vi không nộp số tiền 130 triệu đồng về Viettel Post mà tự ý sử dụng chi tiêu cá nhân và duy trì đóng cước hàng tháng cho khách hàng để che giấu hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, thực tế khi phát hiện vụ việc thì số tiền A đã đóng cước hàng tháng cho khách hàng là 90 triệu đồng; số tiền thực tế chưa nộp về cho Viettel tỉnh V. là  40 triệu đồng. Do vậy, áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội, có thể xác định số tiền thực thực tế chưa nộp về cho Viettel tỉnh V. là thiệt hại thực tế để truy cứu trách nhiệm hình sự A. về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS.

Kiến nghị hoàn thiện

Hiện nay do chưa có văn bản mới thay thế nên chúng ta vẫn có thể áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999 để giải quyết trong một số trường hợp liên quan đến tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung. Tuy nhiên, do các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của BLHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi bổ sung so với BLHS năm 1999 nên việc áp dụng Thông tư trong một số vụ án không còn phù hợp. Nhằm bảo đảm việc định tội danh đối với nhóm tội phạm này bảo đảm chính xác, không để xảy ra sai sót gây bất lợi cho người phạm tội, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thay thế Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP.

PHÙNG HOÀNG
Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 1

Các tin khác