Đặt vấn đề
Cùng với sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về giám sát (trong đó có hoạt động chất vấn) thì thực tiễn hoạt động chất vấn của Quốc hội tại các kỳ họp Quốc hội thời gian qua đã cho thấy luôn thu hút được sự quan tâm, theo dõi của cử tri và nhân dân cả nước, nhất là từ khi chất vấn và trả lời chất vấn được truyền hình, phát thanh trực tiếp. Từ khóa XII, hoạt động giám sát của Quốc hội có nhiều khởi sắc và đi vào dân chủ thực sự, được đánh giá là nổi trội bởi phương pháp và kỹ năng giám sát của Quốc hội đã được đổi mới. Lần đầu tiên, Quốc hội triển khai thực hiện việc chất vấn trên hội trường theo từng nhóm vấn đề cụ thể, có tranh luận và có sự tham gia giải trình cùng với người bị chất vấn của những người khác có liên quan. Hoạt động chất vấn đã góp phần tích cực giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra, có tác động thiết thực, thúc đẩy các cơ quan nhà nước khắc phục những thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Những kết quả đó góp phần vào việc tăng cường chất lượng, hiệu quả của công tác giám sát của Quốc hội. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã có nhiều tiến bộ(1). Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi hoạt động này cần được quan tâm, khắc phục những tồn tại hạn chế và tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả.

Một phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Quốc hội.
Thực trạng hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội trong thời gian qua
Chất vấn là một trong những hình thức giám sát của đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đối với các cá nhân trong bộ máy nhà nước do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Chất vấn là một dạng câu hỏi nhưng nó khác câu hỏi thông thường ở chỗ: Nếu câu hỏi thông thường chỉ nhằm mục đích thu thập thông tin thì chất vấn nhằm để quy kết trách nhiệm đối cá nhân (cơ quan) người bị chất vấn. Kết quả trả lời chất vấn là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đánh giá cá nhân (cơ quan) đó có hoàn thành nhiệm vụ hay không.
Pháp luật Việt Nam quy định: “Chất vấn là việc đại biểu Quốc hội nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; đại biểu hội đồng nhân dân nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu”(2).
Trong thời gian gần đây, các ĐBQH đã sử dụng quyền năng chất vấn của mình như một công cụ giám sát hữu hiệu. Chất vấn và trả lời chất vấn đã trở thành một trong những nội dung sinh động trong hoạt động của Quốc hội, được nhân dân cả nước quan tâm, theo dõi. Tác dụng to lớn của các phương tiện truyền thông đã góp phần tăng thêm tính hiệu quả cho các phiên chất vấn, bên cạnh việc chuyển tải những nội dung chính, các báo cáo thể hiện cả những ý kiến trái ngược hoặc những phản ứng của các vị ĐBQH, của cử tri đối với việc trả lời chất vấn của các bộ trưởng. Điều này ít nhiều cũng khiến những người có trách nhiệm phải cân nhắc và xem xét lại cách thức trả lời chất vấn của mình trong những lần tiếp theo. Cùng với việc mở rộng dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn cũng từng bước được cải tiến. Tại nhiều kỳ họp Quốc hội, những buổi chất vấn trở nên rất sôi nổi và hấp dẫn. Tính đối thoại, tranh luận trong các phiên chất vấn cũng ngày càng được phát huy, tăng cường thêm tính dân chủ trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Điều này thể hiện qua số lượng các câu hỏi chất vấn không ngừng tăng lên, nội dung các câu hỏi cũng chứa đựng được các vấn đề bức xúc của xã hội mà cử tri quan tâm. Chất lượng các câu hỏi chất vấn được tăng lên cao, nội dung chất vấn ngày càng sắc sảo, câu hỏi chất vấn ngắn gọn, rõ ràng, có trọng tâm. Tình trạng các câu chất vấn mang tính chất thông tin hay những vấn đề mang tính chất địa phương được giảm đáng kể. Các đại biểu khi đặt câu hỏi đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, các câu hỏi chất vấn đã “xoáy sâu” vào những vấn đề mang tính thời sự, gây bức xúc trong xã hội mà cử tri cả nước quan tâm. Thông qua chất vấn, nhiều vấn đề đã được làm sáng tỏ, nhất là trách nhiệm của những người đứng đầu ngành, lĩnh vực quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Việc trả lời chất vấn không tập trung vào vấn đề bị chất vấn mà thường kể lể thành tích, nói vòng vo, trốn tránh hay đùn đẩy trách nhiệm cho các chủ thể khác đã không còn, mà thay vào đó là những câu trả lời chất vấn nhận trách nhiệm, chỉ rõ nguyên nhân và đưa ra những biện pháp khắc phục. Có những đại biểu với tinh thần sẵn sàng nhận trách nhiệm về mình, thậm chí có những chủ thể xin được đăng đàn trả lời chất vấn nếu có liên quan đến lĩnh vực mình phụ trách.
Có được kết quả như trên một phần là do hiệu quả của công tác tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri trước mỗi phiên họp Quốc hội. Thông qua các cuộc tiếp xúc, ĐBQH ghi nhận lại ý kiến, tâm tư nguyện vọng, bức xúc của cử tri để chuyển đến đối tượng bị chất vấn một cách đầy đủ, chính xác nhất. Ngoài ra, để có được chất lượng các câu chất vấn như hiện nay, cũng phải kể đến sự hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại chúng, thông qua kênh thông tin này, các vấn đề thực sự là điểm nóng, nhức nhối trong thời gian qua được truyền tải một cách nhanh chóng, nhận được sự quan tâm rộng rãi của cử tri cả nước, giúp cho các vị đại biểu có thể đặt câu hỏi mang tính thời sự, thiết thực nhất. Một yếu tố quan trọng khác cũng góp phần làm tăng chất lượng cho câu hỏi chất vấn là năng lực, trình độ nhận thức, khả năng nắm bắt, phân tích, đánh giá thông tin nhanh nhạy của các ĐBQH.
Chính các yếu tố trên đã góp phần to lớn vào hiệu quả của các câu hỏi chất vấn của ĐBQH.
Bên cạnh đó, để góp phần quan trọng khắc phục mâu thuẫn giữa thời gian họp rất có hạn của Quốc hội và yêu cầu giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân, Quốc hội đã quyết định việc tổ chức các phiên chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Thời gian chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng được linh hoạt hơn so với hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, nên ĐBQH và người trả lời chất vấn cũng có điều kiện hơn trong việc chất vấn và trả lời chất vấn. Đặc biệt, ĐBQH còn thực hiện chất vấn đối với cả Thủ tướng Chính phủ nhằm nâng cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu Chính phủ.
Hoạt động chất vấn gần đây có thêm điểm mới là được tiến hành sàng lọc, quy thành từng nhóm vấn đề. Việc đổi mới này khiến cho phiên chất vấn thêm sội động, thiết thực, tập trung để giải quyết vần đề đưa ra chất vấn một cách thấu đáo hơn, đồng thời khắc phục được tính dàn trải, tạo điều kiện để những người cùng trả lời chất vấn về cùng một vấn đề chủ động tập trung vào trách nhiệm trả lời của mình. Tính đối thoại, tranh luận trong các phiên chất vấn cũng ngày càng được phát huy kể từ khi chuyển từ chất vấn mang tính chất cá nhân từng người một sang chất vấn theo từng nhóm vấn đề. Qua đối thoại, tranh luận trong hoạt động chất vấn sẽ cung cấp thêm thông tin, làm rõ trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn, từ đó là cơ sở cho việc ra nghị quyết sau chất vấn. Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV vừa qua, 2 nhóm vấn đề lớn được Quốc hội lựa chọn (liên quan đến đại dịch Covid-19) được đánh giá là đúng và trúng phù hợp với thực tế, được cử tri, dư luận xã hội cả nước quan tâm, đánh giá cao. Điều này một lần nữa khẳng định chất vấn là hoạt động giám sát trực tiếp hiệu quả nhất của Quốc hội, góp phần tạo dấu ấn, lan tỏa cảm hứng hành động, sáng tạo trong nỗ lực đổi mới hoạt động giám sát.
Vấn đề hậu chất vấn ngày càng quan trọng và đã có những sự đổi mới trong thời gian qua. Việc ban hành nghị quyết sau chất vấn có tác dụng to lớn trong việc làm căn cứ cho việc kiểm định lại lời hứa của các chủ thể bị chất vấn. Ngoài ra, nghị quyết còn có tác dụng thúc đẩy các chủ thể trên nâng cao trách nhiệm thực hiện các lời hứa của mình. Thông qua nghị quyết về hoạt động chất vấn cũng là thước đo niềm tin của Quốc hội đối với các chủ thể trên; là cơ sở để Quốc hội tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hoạt động chất vấn trong và ngoài kỳ họp Quốc hội ngày càng được cử tri cả nước quan tâm, theo dõi, đáp ứng sự kỳ vọng đông đảo của cử tri cả nước.
Với những thành tựu được ghi nhận trên cho thấy, việc thực hiện hoạt động chất vấn của các ĐBQH trong thời gian qua có những bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả việc thực hiện hoạt động chất vấn của ĐBQH, thể hiện qua những phương diện sau đây:
Về đối tượng bị chất vấn
Bất cập trong cách quy định của pháp luật hiện hành là trường hợp một số chức danh vừa thuộc đối tượng bị chất vấn vừa đồng thời là ĐBQH. Câu hỏi đặt ra là hoạt động chất vấn có rơi vào tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” hay không khi một chủ thể có đồng thời hai tư cách: vừa là đối tượng được chất vấn, vừa là đối tượng bị chất vấn?
Về trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động chất vấn
Thứ nhất, một số quy định pháp luật còn chưa cụ thể, thiếu tính thực tiễn. Chẳng hạn, quy định tại Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân, ĐBQH không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại để người bị chất vấn trả lời. Trên thực tế, việc chất vấn lại nhiều khi không đủ thời gian thì nội dung chất vấn lại được Quốc hội cho phép trả lời bằng văn bản. Đối với những trường hợp trả lời bằng văn bản, nếu ĐBQH không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa ra thảo luận tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, kỳ họp Quốc hội gần nhất. Đã có nhiều trường hợp ĐBQH không đồng ý với câu trả lời của đối tượng bị chất vấn nhưng lại chưa bao giờ thực hiện đề nghị trên. Bởi, thời gian dành cho các phiên chất vấn đã được thông qua, thực hiện đúng theo một lịch trình có sẵn thì không thể nào dừng chất vấn với những người sau để lấy thời gian thảo luận vấn đề “ách tắc” của người trước, lại càng khó có thể biểu quyết kéo dài thời gian kỳ họp. Giữa hai kỳ họp, Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội quy định về các trường hợp “cần điều tra” để Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét việc trả lời giữa hai kỳ họp Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân (Điều 17) cũng như các văn bản liên quan khác đã cụ thể hóa quy định này về quy trình, thủ tục, chủ thể tiến hành điều tra và xử lý kết quả điều tra. Tuy nhiên, vẫn chưa quy định rõ thời hạn điều tra là bao lâu và thời hạn đại biểu được nhận kết quả trả lời. Thiết nghĩ, pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể các cơ chế để thực hiện các hoạt động chất vấn, như vậy hoạt động chất vấn tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp của Quốc hội mới đạt được hiệu quả cao nhất, đáp ứng kỳ vọng của cử tri cả nước.
Thứ hai, thời gian luôn là vấn đề đặt ra ở các phiên chất vấn tại mỗi kỳ họp Quốc hội. Trong một số kỳ họp, việc bố trí thời gian cho hoạt động chất vấn chưa phù hợp cả về thời điểm và thời lượng tiến hành phiên chất vấn, dẫn đến việc tổng hợp các ý kiến của ĐBQH về chất vấn không đầy đủ, toàn diện khi lựa chọn các vấn đề chất vấn. Trên thực tiễn, mỗi kỳ họp, Quốc hội dành từ hai ngày rưỡi đến ba ngày làm việc cho hoạt động chất vấn. Thời gian thực hiện các phiên chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội cũng thường là một ngày làm việc. Với thời lượng như trên đã không cho phép các vị ĐBQH làm rõ, cụ thể, đi đến cùng của vấn đề đang gây bức xúc cho nhân dân cả nước thuộc trách nhiệm trả lời chất vấn của các đối tượng bị chất vấn.
Về chất lượng câu hỏi và lựa chọn vấn đề chất vấn
Thực tiễn cho thấy, chất vấn của ĐBQH vẫn còn nhiều câu hỏi mang tính giải đáp, hỏi để biết thông tin, sự việc nào đó là chủ yếu. Các ĐBQH vẫn còn nhầm lẫn giữa mục đích câu hỏi chất vấn và các câu hỏi thông thường khác. Nhiều trường hợp cả người chất vấn và người trả lời chất vấn còn ham nói dài, đại biểu nêu tình hình quá dài rồi mới chất vấn nên không kịp thời gian; có đại biểu xin tranh luận nhưng thực ra lại phát biểu như thảo luận về kinh tế - xã hội(3). Việc lựa chọn vấn đề chất vấn vẫn tồn tại tình trạng mang tính chất đơn lẻ, phạm vi hẹp, còn nhiều vấn đề thuộc trách nhiệm của địa phương hoặc có những câu hỏi mang tính chung chung, phạm vi rộng, đòi hỏi phải có sự trả lời của nhiều bộ, ngành liên quan mới có thể giải đáp được mà nếu đặt ra cho một bộ trưởng thì khó có thể đạt hiệu quả cho cả người hỏi và người trả lời. Diễn đạt câu hỏi một cách dài dòng, tản mạn, dẫn dắt vấn đề đi quá xa, không đúng trọng tâm vấn đề cần hỏi cũng là những bất cập trong cách trình bày câu hỏi của ĐBQH.
Việc giải quyết vấn đề hậu chất vấn
Tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, lần đầu tiên Quốc hội ra Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn làm căn cứ cho việc kiểm định lời hứa của các chủ thể bị chất vấn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như:
Một là, về thời gian thực hiện những giải pháp chưa được quy định cụ thể. Trong các nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội tại một số kỳ họp, Quốc hội chỉ đưa ra yêu cầu cho việc thực hiện những giải pháp mà các chủ thể bị chất vấn đã cam kết nhưng thời gian để thực hiện nó thì Quốc hội lại không yêu cầu. Việc không quy định thời gian cụ thể cũng giống như việc Quốc hội chỉ yêu cầu nhưng thực hiện vào thời gian nào lại tùy thuộc vào chủ thể bị chất vấn. Như vậy, Quốc hội luôn ở thế “bị động” trong việc giám sát lời hứa của các chủ thể trên. Hơn nữa, những vấn đề thảo luận tại phiên chất vấn là những vấn đề mang tính thời sự, liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống, xã hội, vì thế, đòi hỏi những giải pháp trên phải được thực hiện một cách nhanh chóng, linh hoạt, không thể để tình trạng “đóng băng” tại chỗ, từ kỳ họp này đến kỳ họp khác vẫn được đem ra thảo luận, đánh giá.
Hai là, việc ra nghị quyết về chất vấn còn hạn chế lớn khi không xác định rõ trách nhiệm, phạm vi trách nhiệm đối với từng người trả lời chất vấn; việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội còn phụ thuộc nhiều vào những giải pháp, cam kết mà các đối tượng bị chất vấn nêu lên mà chưa có một yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể nào mang tính đột phá xuất phát từ Quốc hội.
Ba là, các báo cáo thực hiện chất vấn thường gửi chậm, ảnh hưởng đến việc nghiên cứu của các ĐBQH; nội dung các báo cáo chỉ nêu kết quả thực hiện, số liệu báo cáo còn thiếu, không rõ hoặc không kế thừa liên tục, một số báo cáo còn chưa bám sát nội dung đã yêu cầu tại các nghị quyết về chất vấn nên khó đánh giá kết quả thực hiện. Việc triển khai một số nội dung trong các nghị quyết chất vấn còn chậm hoặc chưa hiệu quả theo yêu cầu của Quốc hội. Việc chuyển phiếu chất vấn của đại biểu còn chưa có sự thống nhất về thời điểm chuyển phiếu dẫn tới việc ĐBQH lại đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp tại nghị trường trùng với câu hỏi chất vấn bằng văn bản đã gửi, người bị chất vấn biết trước câu hỏi chất vấn làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chất vấn trực tiếp. Việc theo dõi, đôn đốc, tổng hợp nội dung trả lời chất vấn bằng văn bản chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. ĐBQH chưa liên kết giữa việc xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn với việc xem xét, kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, những người đứng đầu các cơ quan chuyên trách(4).
Bốn là, chưa có cơ chế giám sát hiệu quả việc thực hiện những cam kết của đối tượng bị chất vấn. Thực tế hiện nay, sau khi đã đặt ra những nhiệm vụ cho từng đối tượng bị chất vấn thì chưa có một cơ sở pháp lý nào ghi nhận giám sát việc thực hiện các nghị quyết của các chủ thể có liên quan. Trong hai kỳ họp gần đây nhất, các Phó Thủ tướng đã thay mặt Chính phủ đọc báo cáo giải trình về việc thực hiện những nhiệm vụ đã được Quốc hội đề ra từ kỳ họp trước của các thành viên Chính phủ. Tuy nhiên, không ai có thể chắc chắn rằng nội dung trong các báo cáo trên là chính xác, đầy đủ và khách quan khi không có một cơ chế nào giám sát việc thực hiện các nội dung trong bản báo cáo. Quốc hội chỉ ngồi nghe và tiếp thu các chủ thể báo cáo, còn trên thực tế có đúng là các vấn đề trên đã được giải quyết hay chưa thì đó vẫn là một câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp. Đã đến lúc Quốc hội cần phải hoàn thiện cơ sở pháp lý để hoạt động chất vấn của ĐBQH được bảo đảm thực hiện, mang lại hiệu quả cao trên thực tế.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên, trong đó có việc luật pháp đã chưa dự tính hết các điều kiện để bảo đảm quy định pháp luật được thực thi có hiệu quả trên thực tế. Bên cạnh đó, việc các ĐBQH chủ yếu là hoạt động kiêm nhiệm nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động chất vấn. Quốc hội nước ta chỉ có khoảng 25% các ĐBQH hoạt động chuyên trách, còn lại là các đại biểu kiêm nhiệm. Để các vị đại biểu này hoàn thành tốt công tác của họ bên cạnh nhiệm vụ là đại biểu nhân dân là điều hết sức khó khăn. Điều này làm cho các ĐBQH không có nhiều thời gian và thiếu đi tính chuyên nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực làm việc của các vị đại biểu.
Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, hoạt động chất vấn là một hoạt động đòi hỏi các vị đại biểu phải dành nhiều thời gian, tâm huyết hiểu rõ vấn đề, trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn, nên trên thực tế, việc sử dụng quyền chất vấn của ĐBQH không được quan tâm đúng mức dẫn đến hoạt động chất vấn kém hiệu quả. Năng lực, trình độ của ĐBQH không đồng đều cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện hoạt động chất vấn của các vị ĐBQH trên thực tế.
Giải pháp đổi mới hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt NamMột là, tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Thực tiễn chứng minh hoạt động giám sát tối cao đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung của Quốc hội, đưa Quốc hội hoạt động ngày càng thực chất, xứng đáng với vị trí và vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội được tiến hành dựa trên trình độ, năng lực, bản lĩnh của ĐBQH. Vì thế, chất lượng của ĐBQH, nhất là kỹ năng và bản lĩnh là nhân tố có ý nghĩa quyết định góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Do đó, cần nâng cao chất lượng ĐBQH toàn diện, đặc biệt phải tăng cường nhận thức đầy đủ, thống nhất về vai trò của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, tăng cường các phương tiện trợ giúp cho hoạt động giám sát như cung cấp thông tin, kiểm toán nhà nước. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân cũng đã bộc lộ một số hạn chế cần được hoàn thiện, bổ sung thêm. Ví dụ như vấn đề quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát, đặc biệt là trách nhiệm thực hiện kiến nghị giám sát còn quy định thiếu cụ thể. Quy trình thủ tục giám sát cũng cần được hoàn thiện. Chế tài giám sát cũng cần được quy định rõ ràng, minh bạch hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội, còn cần có các phương tiện trợ giúp như kiểm toán nhà nước, cung cấp thông tin, phân tích chính sách, các phương tiện thông tin đại chúng...
Hai là, nghiên cứu, hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, quy định rõ trình tự, thủ tục các khâu tiến hành hoạt động chất vấn. Cần sửa đổi, bổ sung và quy định rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động chất vấn trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, Quy chế hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để bảo đảm cho hoạt động chất vấn được thực hiện có hiệu quả cao hơn. Theo đó, cần bổ sung các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục các khâu chuẩn bị cho việc tổ chức hoạt động chất vấn trong và ngoài kỳ họp Quốc hội để các cơ quan tham mưu dễ triển khai thực hiện; trình tự, thủ tục gửi câu hỏi chất vấn bằng văn bản, cách nêu câu hỏi chất vấn trực tiếp tại hội trường, phạm vi đặt câu hỏi chất vấn, những loại câu hỏi không nên đưa ra trước phiên họp toàn thể.
Quy định cụ thể một số yêu cầu đối với câu hỏi chất vấn, câu trả lời chất vấn, các trường hợp Quốc hội sẽ xem xét ra nghị quyết về chất vấn. Cần cụ thể hóa các quy định về hoạt động chất vấn của ĐBQH và trách nhiệm trả lời chất vấn của những người trả lời chất vấn trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân theo hướng quy định rõ các tiêu chí của câu hỏi chất vấn, làm rõ thế nào là một chất vấn đạt yêu cầu; quy định rõ tiêu chí, thủ tục để Quốc hội đánh giá chất lượng câu trả lời chất vấn. Khi có tiêu chí rõ ràng sẽ tránh được tình trạng hỏi tràn lan, hỏi chỉ để biết thông tin và thay vào đó là những câu chất vấn có chất lượng cao; mặt khác, tinh thần, trách nhiệm của người trả lời chất vấn sẽ được nâng lên.
Bổ sung vào các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động chất vấn trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Quy định rõ thời hạn trả lời bằng văn bản của người có trách nhiệm nhận được chất vấn của ĐBQH, để tổng hợp và chuẩn bị nội dung phục vụ Chủ tịch Quốc hội điều hành trong phiên họp về chất vấn và trả lời chất vấn. Quy định trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, phục vụ Chính phủ, Chủ tịch nước, các bộ, ngành trong việc phối hợp với các cơ quan tham mưu, phục vụ trong Quốc hội triển khai phục vụ hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Ba là, các giải pháp áp dụng tại kỳ họp Quốc hội. Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội được quy định tại Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân năm 2015. Thực tế thực hiện còn có những hạn chế. Để khắc phục hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, một số giải pháp sau được khuyến nghị: (1) Quy định cụ thể thời gian ĐBQH gửi phiếu chất vấn đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để Ủy ban này chủ động có đủ thời gian nghiên cứu, trình Quốc hội quyết định nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn trước khi tiến hành phiên chất vấn; (2) Nghiên cứu tiếp tục tăng thời gian chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó, phân bổ nhiều thời gian hơn cho hoạt động tranh luận (khoảng 1/3 tổng thời gian) và bảo đảm nguyên tắc tất cả các vấn đề quan trọng phải được tranh luận; (3) Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH như tạo lập không khí dân chủ, cởi mở, thẳng thắn trong các phiên chất vấn và trả lời chất vấn; hỗ trợ mạnh mẽ hơn về thông tin cho ĐBQH, tạo điều kiện cho đại biểu có thêm những lập luận và chứng cứ xác thực khi thực hiện quyền chất vấn…; (4) Nâng cao chất lượng, hiệu quả của phương thức mới là “chất vấn toàn khóa”, hay còn gọi là “chất vấn quét” (chất vấn kết hợp với xem xét việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm kỳ); (5) Nghiên cứu xây dựng nội dung nghị quyết chất vấn của Quốc hội, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mang tính bắt buộc đối với các bộ, ngành có liên quan, trong đó xác định rõ chế tài xử lý việc không thực hiện đúng lời hứa chất vấn của những người bị chất vấn.
Bốn là, các giải pháp áp dụng tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong Quy chế hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần quy định cụ thể những trường hợp cần thiết mà Quốc hội sẽ ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn. Ngoài ra, cần quy định rõ thời hạn trả lời chất vấn của người bị chất vấn khi chất vấn được đại biểu gửi đến giữa hai kỳ họp Quốc hội. Như vậy, sẽ tạo áp lực lên người bị chất vấn trả lời nhanh chóng những chất vấn mà đại biểu gửi đến, đồng thời cũng là căn cứ để xem xét người trả lời chất vấn có thực hiện được trách nhiệm hay không. Cần tăng cường hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội, tại các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, tránh tình trạng gây áp lực quá tải trong kỳ họp Quốc hội. Tập trung nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tham mưu, phục vụ Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nội dung như: xây dựng tờ trình; tham mưu cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nội dung trả lời chất vấn và danh sách những người trả lời chất vấn; dự thảo nghị quyết, biên bản tóm tắt trả lời chất vấn; cung cấp thông tin phục vụ công tác điều hành phiên họp chất vấn; tham mưu kịp thời các nội dung lớn, có tính chuyên môn cao để chủ tọa kết luận sau khi kết thúc việc trả lời chất vấn của các bộ trưởng, trưởng ngành; cung cấp thông tin, tham mưu cho đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn; cập nhật và đánh giá về chất lượng nội dung trả lời chất vấn; đề xuất các giải pháp cải tiến hoạt động chất vấn…
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đình Quyền (2022), Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong công tác giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, Kỷ yếu Hội thảo “Giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng- thực trạng và giải pháp”, Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
2. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân năm 2015.
3. Hiến pháp năm 2013.
4. Nguyễn Như Ý chủ biên: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999.
(1) PGS.TS Đinh Xuân Thảo, Dấu ấn trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong- cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=82524#:~:text=C%C3%A1c%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20ph%C3%A1p%20l%C3%BD%20 v%E1%BB%81%20ho%E1%BA%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng,Vi%E1%BB%87t%20Nam%2C%20%C4%91%C3%B3%20 l%C3%A0%20Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p%20n%C4%83m%201946, ngày 30/10/2024.
(2) Điều 80 Hiến pháp 2013 và khoản 7 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân năm 2015.
(3) Nguyễn Đình Quyền, Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong công tác giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng, Kỷ yếu Hội thảo “Giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng- thực trạng và giải pháp”, Viện Nghiên cứu lập pháp, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, 2022.
(4) Nguyễn Đình Quyền, tlđd.