/ Trao đổi - Ý kiến
/ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra: Vướng mắc và kiến nghị, đề xuất

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra: Vướng mắc và kiến nghị, đề xuất

17/12/2024 06:45 |4 tháng trước

(LSVN) - Hiện nay, tình hình thiên tai diễn biến phức tạp khiến cây xanh trên các tuyến đường gãy đổ, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người dân, đặc biệt là phương tiện đậu gần cây. Điều này đặt ra câu hỏi về quyền lợi của người dân và trách nhiệm của cá nhân và các cơ quan, tổ chức. Quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra còn thiếu rõ ràng, gây khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng. Bài viết tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

1. Những quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

Theo Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ sở hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi tài sản của họ gây ra thiệt hại cho người khác. Trong trường hợp cây cối, nếu cây bị đổ, gãy nhánh hoặc gây ra các sự cố khác làm tổn hại tài sản, sức khỏe của người khác, chủ sở hữu cây cối sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ khi chứng minh được rằng thiệt hại không phải do lỗi của họ.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra chỉ phát sinh khi đáp ứng đầy đủ ba điều kiện cơ bản sau:

Thứ nhất, có thiệt hại thực tế xảy ra.

Đây là điều kiện tiên quyết, mà không có thiệt hại, thì không thể phát sinh trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại có thể là về vật chất (tài sản, chi phí sửa chữa) hoặc về sức khỏe, tính mạng. Căn cứ vào Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu hành vi của họ xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người khác, bao gồm tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản, căn cứ tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Cụ thể như sau: 

“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 584 của Bộ luật Dân sự phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:

a) Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác;

b) Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần;

Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm tổn thất về tài sản mà không khắc phục được; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp khác bị xâm phạm.

Thiệt hại về tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân khác mà chủ thể bị xâm phạm hoặc người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó.

c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại”.

Thiệt hại trong trường hợp này bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, tuy nhiên, như thế nào là thiệt hại thực tế. Thiệt hại thực tế là thiệt hại dựa trên thực tiễn, có thể hiểu là thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với thiệt hại do cây cối gây ra là các thiệt hại về tính mạng, sức  khỏe, tài sản và tinh thần của con người, cơ quan, tổ chức.

Thứ hai, sự kiện cây cối gây thiệt hại trái pháp luật.

Trái pháp luật có thể hiểu là hành động hoặc sự kiện gây thiệt hại không được phép theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, thiệt hại do cây cối gây ra phải là do tác động tự thân của cây cối, tức là sự kiện gây thiệt hại không thể kiểm soát hay ngăn ngừa bởi con người. Pháp luật hiện nay chưa quy định rõ về tính trái pháp luật khi cây cối gây thiệt hại, nhưng có thể hiểu là sự kiện này không nằm trong các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường hoặc trong phạm vi được phép của pháp luật.

Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện cây cối gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.

Để phát sinh trách nhiệm bồi thường, cần phải có mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa sự kiện cây cối gây thiệt hại và thiệt hại thực tế. Cụ thể, thiệt hại phải là kết quả tất yếu của sự kiện gây ra, nghĩa là cây cối phải là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại mà không có sự tác động của yếu tố bên ngoài hoặc hành vi con người. Điều này có nghĩa là sự kiện cây cối gây thiệt hại phải xảy ra trước, sau đó là hậu quả tất yếu của thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị ảnh hưởng.

Chỉ khi tất cả ba điều kiện trên được đáp ứng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra mới có cơ sở pháp lý để phát sinh, và chủ sở hữu, người quản lý cây cối mới có trách nhiệm đối với thiệt hại mà cây cối gây ra. 

1.2. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

Theo Điều 604 Bộ luật Dân sự 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra thuộc về chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người được giao quản lý cây cối. Cụ thể:

- Chủ sở hữu cây cối: Chủ sở hữu cây cối có nghĩa vụ kiểm tra và bảo vệ cây của mình trong suốt quá trình sinh trưởng, đảm bảo cây không gây ra nguy hiểm cho người khác. Họ phải kiểm tra định kỳ để phát hiện nguy cơ cây đổ, gãy hoặc cành lá quá lớn có thể gây thiệt hại trong các điều kiện thời tiết xấu (mưa bão). Nếu có dấu hiệu nguy hiểm, chủ sở hữu cần thực hiện các biện pháp cần thiết, như cắt tỉa cành lá hoặc thực hiện các biện pháp gia cố để hạn chế thiệt hại cho người khác. Việc không thực hiện những biện pháp này có thể dẫn đến việc chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

- Người chiếm hữu hoặc người được giao quản lý cây cối: Những người chiếm hữu tài sản hoặc được giao nhiệm vụ chăm sóc và quản lý cây cối, ví dụ như người thuê đất, người hưởng dụng tài sản theo thỏa thuận hoặc các đơn vị quản lý cây xanh công cộng, cũng phải có trách nhiệm bảo vệ cây cối và thực hiện biện pháp bảo quản để ngăn ngừa thiệt hại. Điều này có thể bao gồm việc chăm sóc cây, kiểm tra tình trạng cây để đảm bảo chúng không gây nguy hiểm.

Tuy nhiên, nếu thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng (ví dụ như bão lốc, động đất, thiên tai) mà chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người quản lý cây cối không thể lường trước hoặc không thể ngăn chặn dù đã áp dụng mọi biện pháp phòng ngừa hợp lý, thì họ sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này, thiệt hại là kết quả của các yếu tố ngoài tầm kiểm soát của con người, và chủ thể không thể bị quy trách nhiệm dù đã thực hiện nghĩa vụ bảo vệ cây cối.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra thuộc về chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người được giao quản lý cây cối. Họ phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ cây cối và ngăn ngừa thiệt hại. Tuy nhiên, nếu thiệt hại phát sinh do yếu tố bất khả kháng mà không thể ngăn chặn, các chủ thể này sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.

2. Vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật

Một là, Điều 604 Bộ luật Dân sự cho phép chủ sở hữu tài sản không phải bồi thường thiệt hại nếu có chứng cứ chứng minh thiệt hại không phải do lỗi của mình (như thiên tai, sự kiện bất khả kháng). Tuy nhiên, trong trường hợp cây cối bị đổ do bão, lốc, hoặc các hiện tượng thời tiết cực đoan, xác định liệu chủ sở hữu có thể miễn trách nhiệm bồi thường hay không vẫn còn nhiều tranh cãi. Đôi khi, khó xác định liệu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do sự kiện bất khả kháng hay do sự thiếu bảo dưỡng, chăm sóc đối với cây trồng của chủ sở hữu (ví dụ, cây đã yếu, không có dụng cụ chống đỡ, không được chăm sóc hoặc tỉa bớt trước khi bão đến). Trường hợp cây bị đổ không hoàn toàn do thiên tai mà có sự kết hợp giữa yếu tố khách quan và việc chăm sóc cây không đầy đủ, việc xác định mức độ lỗi của chủ sở hữu cũng gặp phải sự mơ hồ.

Hai là, theo quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra bao gồm: chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý cây cối. Tuy nhiên, trong giao dịch dân sự luôn tôn trọng và đề cao sự thỏa thuận của các biên. Trường hợp thuê mướn cây trồng mà trong hợp đồng có ghi rõ “trong trường hợp cây cối gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho các chủ thể khác thì hai bên sẽ liên đới chịu trách nhiệm” thì theo nguyên tắc của luật dân sự phải tôn trọng thỏa thuận của các bên, tuy nhiên tại Điều 604 Bộ luật Dân sự chỉ quy định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại gồm có chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người quản lý cây cối mà không có quy định trường hợp nếu các bên có thỏa thuận khác như vậy là trái với nguyên tắc tự do thỏa thuận trong giao dịch dân sự.

Ba là, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối thuộc sở hữu của cộng đồng gây ra hiện chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành. Theo quy định tại Điều 211 Bộ luật Dân sự năm 2015 về sở hữu cộng đồng như sau: 

“Điều 211. Sở hữu chung của cộng đồng

1. Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.

2. Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

3. Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.”

Như vậy, cây cối thuộc sở hữu chung của cộng đồng, như cây xanh công cộng hoặc cây cối trong các khu vực công cộng (công viên, vườn hoa, cây trên vỉa hè,...) là trường hợp đặc biệt, gây khó khăn trong việc xác định rõ ràng chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường khi xảy ra thiệt hại.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, cần có hướng dẫn cụ thể đối với việc xác định lỗi của chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây. Để áp dụng một cách thống nhất và công bằng, cần có các tiêu chí rõ ràng để đánh giá lỗi của chủ thể trong quản lý và bảo vệ cây cối. Các tiêu chí này có thể bao gồm: Việc thực hiện kiểm tra và bảo dưỡng cây cối (tần suất, phương pháp); đánh giá tình trạng cây cối và nhận diện nguy cơ tiềm ẩn; phương pháp xử lý các tình huống khẩn cấp khi cây cối có dấu hiệu nguy hiểm,…

Thứ hai, cần có quy định trong trường hợp các bên thỏa thuận về vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp xảy ra thiệt hại do cây cối gây ra, bên cạnh đó cần bổ sung thêm chủ thể đối với cây cối thuộc sở hữu cộng động là các cơ quan, tổ chức quản lý cộng đồng. Tác giả đề xuất bổ sung khoản 1 Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người quản lý cây cối hoặc các cơ quan, tổ chức quản lý cây cối cộng đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra đối với người khác trong các trường hợp cây cối đó có khả năng gây nguy hiểm, như khi cây đổ, gãy hoặc có cành nhánh vươn ra ngoài khuôn viên, làm ảnh hưởng đến tài sản hoặc tính mạng của người khác. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

PHẠM CAO SƠN
Tòa án Quân sự khu vực Hải quân

Các tin khác