Sáng ngày 25/11/2025, phát biểu tại phiên thảo luận tổ về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục giai đoạn 2026-2035, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình đã đề cập tới chủ trương không cho phép các trường đại học không chuyên đào tạo một số lĩnh vực đặc thù như y khoa và luật.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Đây là một chủ chương đúng đắn, rất cần thiết và phù hợp với xu hướng, yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt đối với những ngành nghề đòi hỏi chất lượng đầu ra đặc biệt cao như y khoa và luật. Không chỉ bởi đây là những ngành nghề “cao quý” đòi hỏi những con người có đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn cao mà chất lượng nguồn nhân lực trong các ngành nghề này còn ảnh hưởng rất lớn đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống kinh tế - xã hội, sự an toàn về sức khỏe, tính mạng của người dân, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cải cách tư pháp, công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, cơ quan và tổ chức trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, yêu cầu đối với việc đào tạo những ngành nghề này là rất cao, từ chuẩn đầu vào đến cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên chuyên sâu, chương trình đào tạo, cơ sở thực hành phải đáp ứng những tiêu chuẩn rất khắt khe.
Hiện nay, cả nước có khoảng 36 cơ sở giáo dục đại học đào tạo bác sĩ, dược sĩ và các ngành thuộc khối sức khỏe, bao gồm cả công lập và tư thục. Đối với ngành Luật, mức độ mở ngành còn rộng hơn khi có đến khoảng 99 trường đại học đang đào tạo cử nhân luật, với năng lực và chất lượng đào tạo khác nhau.
Các trường chuyên đào tạo y khoa hoặc luật thường được đầu tư bài bản về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên chuyên sâu và có truyền thống, kinh nghiệm đào tạo. Ngành Y có bệnh viện trường học, phòng thí nghiệm hiện đại và bác sĩ thực hành trực tiếp hướng dẫn sinh viên; ngành Luật có phòng diễn án, thư viện pháp lý chuyên sâu và giảng viên là những người dày kinh nghiệm cả về nghiên cứu lẫn thực tiễn. Chương trình đào tạo ở các trường chuyên cũng được xây dựng chuẩn hóa, tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm sinh viên vững lý thuyết và thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Trong khi đó, nhiều trường không chuyên mở ngành theo phong trào, năng lực đào tạo còn chưa thực sự tốt, thậm chí là không đáp ứng được yêu cầu đã dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực. Nhiều trường tăng chỉ tiêu nhưng không có bệnh viện thực hành, phòng thí nghiệm đạt chuẩn hay giảng viên đủ chuyên môn, đặc biệt là chuyên môn sâu. Khi các trường mải chạy theo số lượng mà không quan tâm đúng mức đến chất lượng thì các sinh viên ra trường sẽ “đông mà yếu”, thiếu các kiến thức và kỹ năng hành nghề cần thiết.
Hệ quả là không chỉ là thừa cử nhân, bác sĩ mà còn có thể gây ra những hậu quả đáng tiếc, các bác sĩ yếu chuyên môn có thể gây nguy hại đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh, đội ngũ luật gia yếu kém có thể gây cản trở cho việc phát triển môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh và bền vững, cũng như những mục tiêu phát triển của xã hội và đất nước.
Việc thực hiện chủ chương này cũng góp phần chuẩn hóa hệ thống giáo dục đại học, củng cố uy tín và chất lượng giáo dục đại học, hạn chế được việc đào tạo tràn lan, chạy theo số lượng, nhu cầu tuyển sinh mà “bỏ quên” chất lượng. Đồng thời, tập trung được các nguồn lực cho việc phát triển các cơ sở giáo dục chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế. Qua đó, các sinh viên sẽ được học tập trong môi trường đạt chuẩn, tiếp cận thực hành chuyên sâu, tăng khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. So với tình trạng mở ngành tràn lan, cách tiếp cận này không chỉ nâng tầm chất lượng nhân lực mà còn nâng cao chất lượng và vị thế của nền giáo dục đại học Việt Nam trên trường quốc tế, đáp ứng được các yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, để tránh “xáo trộn” quá lớn, bảo đảm các quyền lợi cho các trường, cũng như người học, thì chủ chương này cần một lộ trình thực thiện và các cơ chế chuyển tiếp phù hợp. Đồng thời, cũng không nên cấm tuyệt đối mà cần có sự linh hoạt, đối với các trường đa ngành đáp ứng được các tiêu chuẩn, đảm bảo được chất lượng đào tạo thì vẫn có thể tiếp tục đào tạo các ngành đặc thù. Tuy nhiên, cần có sự quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch, không để phát triển tự phát, chỉ tiêu tuyển sinh phải phù hợp với năng lực đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, công tác giám sát, kiểm định chất lượng, chuẩn hóa đào tạo cũng phải được thực hiện chặt chẽ và hiệu quả, đối với các ngành đặc thù thì cũng phải có các tiêu chuẩn đặc thù, khắt khe và cao hơn so với các ngành đào tạo khác.
Do đó, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu và ban hành những tiêu chuẩn, điều kiện, chuẩn đào tạo mới, để có cơ sở rà soát, đánh giá, sàng lọc và giữ lại được các cơ sở đào tạo thật sự chất lượng, còn trường nào không đạt chuẩn thì sẽ phải đóng ngành và dừng tuyển sinh. Điều này sẽ không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn giúp đảm bảo tính công bằng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường đại học, tránh tư tưởng “độc quyền”, tạo điều kiện cho người học có thêm những sự lựa chọn phù hợp.
Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời khẳng định vị thế và uy tín của các trường đại học Việt Nam trên trường quốc tế, thì phải chấm dứt tư duy chạy theo số lượng, tập trung nâng cao chiều sâu chất lượng trong giáo dục đại học. Việc "siết" lại điều kiện đào tạo không phải là hạn chế sự phát triển mà là sự sàng lọc cần thiết để nâng cao chất lượng, sự tôn vinh và bảo vệ giá trị thực sự cho tấm bằng bác sĩ và cử nhân Luật.
Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Giám đốc Công ty Luật TNHH Thiện Duyên
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

